recwar2004

New Member

Download Tiểu luận Tìm hiểu quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam miễn phí





Trong các văn bản của pháp luật quốc gia và luật quốc tế, chúng ta thường gặp khá phổ biến thuật ngữ “các nguyên tắc và các quy phạm Luật Quốc tế”. Vậy thuật ngữ đó cần được hiểu như thế nào? các nguyên tắc khác so với các quy phạm. Có nhiều nhà khoa học - Luật Quốc tế đã cho rằng giữa các nguyên tắc và các quy phạm chỉ khác nhau ở sự khái quát hoá và hiệu lực pháp lý. Các nguyên tắc là các quy phạm chung nhất, có tính khái quát quy phạm cao nhất và đã được khẳng định trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia - giữa các chủ thể của Luật Quốc tế. Điều đó đã được minh chứng bằng thực tiễn, chẳng hạn như trong phán quyết của Toà án quốc tế về giải quyết tranh chấp giữa Mỹ - Canađa về ranh giới Vịnh Meil đã nhấn mạnh thuật ngữ “các nguyên tắc và các quy phạm” đều thể hiện chung một ý nghĩa pháp lý. Đó là thuật ngữ “các nguyên tắc” có nghĩa là các nguyên tắc pháp lý, chúng được ghi nhận trong các quy phạm Luật Quốc tế và khi nói đến thuật ngữ “các nguyên tắc” có nghĩa là nói đến các quy phạm có tính chất chung, cơ bản và quan trọng nhất [4]. Một minh chứng khác, đó là trong Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ ngày 11/12/1946 đã nhấn mạnh rằng các nguyên tắc được ghi nhận trong Quy chế toà án quân sự Nurembe đã thể hiện bản chất là các nguyên tắc của Luật Quốc tế. Các nguyên tắc cũng là các quy phạm Luật Quốc tế nhưng có tính khát quát hoá hơn và có hiệu lực pháp lý cao hơn so với các quy phạm khác. Như vậy, các nguyên tắc và các quy phạm được công nhận chung của Luật Quốc tế đều là các quy phạm được cộng đồng quốc tế công nhận, được phân loại và được xem là bắt buộc đối với các chủ thể của Luật Quốc tế khi họ tham gia vào sinh hoạt cộng đồng. Nhưng trong hệ thống các quy phạm đó thì các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế chiếm một vị trí đặc biệt, các quy phạm Luật Quốc tế khác để có hiệu lực pháp lý quốc tế thì cần phù hợp với các nguyên tắc này. Trong Quy chế toà án quốc tế, khi phân tích thuật ngữ “các nguyên tắc chung của pháp luật” (Điều 38), chúng ta có thể hiểu thuật ngữ đó bao gồm: các nguyên tắc pháp luật chung của hệ thống pháp luật quốc gia; và các nguyên tắc và các quy phạm được công nhận chung của Luật Quốc tế.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

của bên nhận quyền.
Hoạt động của hệ thống NQTM thường dẫn tới một hệ quả làm bóp méo cạnh tranh.
Hợp đồng NQTM có thể có quy định về vấn đề phân chia thị trường, bao gồm phân định lãnh thổ (khu vực kinh doanh) và phân chia khách hàng như: cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi kinh doanh của mình, cấm bên nhận quyền bán lại hàng mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền cho các nhà bán lẻ không phải là thành viên của hệ thống NQTM; cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền...Ngoài ra hợp đồng NQTM còn thường có các quy định về việc ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống NQTM, các quy định ràng buộc bên nhận quyền nhằm duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Những quy định này của hợp đồng NQTM thường dẫn Bản chất
Trong thời gian trước đây ở Việt Nam nhượng quyền thương mại được coi như là một dạng hoạt động chuyển giao công nghệ và chịu sự điều chỉnh của luật về chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên về bản chất nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ là hai hoạt động khác biệt. Nhượng quyền thương mại chính là việc nhượng quyền kinh doanh kèm theo đó là uy tín, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh cũng như các kiến thức, bí quyết kinh doanh dây truyền thiết bị công nghệ cho một thương nhân. Trên cơ sở đó thương nhân nhận quyền thương mại phát triển một cơ sở kinh doanh mới, một cơ sở có thể bán, sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa nhất định hay cung cấp các dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, cách phục vụ như thương nhân nhượng quyền và dưới thương hiệu của thương nhân nhượng quyền. Hay nói cách khác “nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của bên nhượng quyền thông qua việc chia sẻ quyền kinh doanh trên cùng một thương hiệu cho bên nhận quyền”. Ngược lại chuyển giao công nghệ thực chất là việc chuyển giao các kiến thức kỹ thuật từ người có kiến thức cho một người khác, trên cơ sở đó người nhận kiến thức khai thác các giá trị của công nghệ sản xuất ra hàng hóa sản phẩm theo ý kiến chủ quan của mình chứ không phải theo một khuôn mẫu, quy định nào từ phía bên chuyển giao công nghệ. Xuất phát từ sự khác biệt về bản chất đó, cho nên khi sử dụng các văn bản pháp luật về chuyển giao công nghệ điều chỉnh việc nhượng quyền thương mại đã tạo ra một số vấn đề bất cập trong thực tiễn, nhận thức được những vấn đề bất cập đó, đồng thời để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và tiến trình hội nhập, Luật Thương mại 2005 đã chính thức bổ sung thêm một số hoạt động thương mại vào phạm vi điều chỉnh đó là nhượng quyền thương mại. Đây là chế định góp phần hoàn thiện pháp luật về thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại nói riêng. Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập, có những nét đặc thù so với chuyển giao công nghệ.
Dưới góc độ kinh doanh, nó là một hình thức tiếp thị và phân phối hàng hóa, dịch vụ rất hiệu quả, theo đó, bên nhận quyền được cấp quyền kinh doanh một loại sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với các tiêu chuẩn, hệ thống, cách đã được bên nhượng quyền thiết lập với sự trợ giúp, huấn luyện và kiểm soát của bêm nhượng quyền. Đổi lại, bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền và phí bản quyền cho bên nhượng quyền.
Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại
* Đối với bên nhượng quyền:
+ Mở rộng được hệ thống kinh doanh mà không phải đầu tư nhiều và vẫn nằm trong sự điều tiết, kiểm soát của mình. Do tính đặc thù của nhượng quyền thương mại là bên nhận quyền thương mại luôn chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền thương mại.
+ Thu được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ việc nhượng quyền cho bên nhận quyền vì khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền bản quyền thuê thương hiệu và tiền phí để được kinh doanh với tên và hệ thống của bên nhượng quyền. Đồng thời bên nhận quyền phải mua sản phẩm, nguyên liệu của bên nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hoá thu nhập của mình.
+ Cải thiện được hệ thống phân phối.
+ Thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu. Khi sử dụng hình thức nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ tạo được những lợi thế trong việc quảng cáo, quảng bá thương hiệu của mình. Mở rộng kinh doanh và sự xuất hiện ở khắp nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng một cách dễ dàng hơn.Bên cạnh đó, vì chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng, cho nên, chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Điều này giúp bên nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đây là một lợi thế cạnh tranh mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng vượt qua. Hoạt động quảng cáo càng hiệu quả, hình ảnh về sản phẩm, thương hiệu càng được nâng cao, giá trị vô hình của công ty càng lớn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho bên nhận quyền khi sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền. Và như thế cả bên nhượng quền và bên nhận quyền ngày càng thu được nhiều lợi nhuận từ việc áp dụng hình thức kinh doanh nhượng quyền.
+ Hạn chế khả năng cạnh tranh của các đối thủ.
* Đối với bên nhận quyền:
+ Tận dụng được nguồn lực, tiết kiệm được chi phí và thời gian trong việc xây dựng một mô hình kinh doanh đào tạo đội ngũ quản lý hay xây dựng một thương hiệu trên thị trường.
+ Giảm thiểu rủi ro: Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa hàng, cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao. Lý do chính của tỷ lệ thất bại cao là do người quản lý là những người mới bước vào nghề, không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho việc học hỏi các đặc trưng riêng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích luỹ được từ những lần trải nghiệm trên thị trường tức là họ kinh doanh theo một mô hình quản lý có sẵn. Bên nhận quyền không phải trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu. Bên nhượng quyền sẽ hướng dẫn bên nhận quyền các nguyên tắc chung.
+ Được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi: bên nhượng quyền luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên bên nhận quyền. Do đó, bên nhận quyền được mua sản phẩm hay nguyên liệu với khối lượng lớn theo một tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá của các sản phẩm, nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn. Nếu trên thị trường có những biến động lớn như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận quyền trước. Điều này giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào, tránh được những tổn thất từ biến động thị trường.
+ R...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top