luuly_maunho

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

ĐỀ TÀI : XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TUMƠRÔNG -TỈNH KON TUM
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thắm.
Lớp: Kinh tế phát triển 10A.
Trường: Đại học Kinh tế Đà Nẵng-Đại học Đà Nẵng
Giáo viên hướng dẫn: Huỳnh Viết Thiên Ân

PHẦN I : CÁC VẤN ĐỀ VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO.
1.1 Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo.
1.1.1 Các khái niệm về cùng kiệt đói.
* cùng kiệt đói là gì? cùng kiệt đói đã và đang tồn tại như là một thách thức lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, một phần tư thế giới đang sống trong cùng cực của cùng kiệt khổ, không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người; hàng triệu người khác cũng có cuộc sống ngấp nghé ranh giới của sự tồn tại tình trạng cùng kiệt đói. Vậy bản chất của cùng kiệt đói là gì?
Khái niệm cùng kiệt đói được nêu ra tại hội nghị bàn về xoá đói giảm cùng kiệt (XĐGN) do Uỷ ban Kinh tế – Xã hội Khu vực Châu Á Thái Bình Dương (viết tắt là ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan vào tháng 9 năm 1993: “Đói cùng kiệt là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế -xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”.
cùng kiệt diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến cùng kiệt nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa cùng kiệt theo thu nhập, theo đó một người là cùng kiệt khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.
Đói là tình trạng không đảm bảo lượng lương thực tối thiểu để đảm bảo cho cuộc sống trong một giai đoạn, một thời gian nhất định.
cùng kiệt tương đối
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, cùng kiệt được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. cùng kiệt tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
cùng kiệt tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là cùng kiệt tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm giác cùng kiệt không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc cùng kiệt đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
Ranh giới cùng kiệt tương đối
Ranh giới cho nạn cùng kiệt tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn cùng kiệt được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là cùng kiệt khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là cùng kiệt tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu cùng kiệt tương đối trong một nước. Ngược lại cùng kiệt tương đối sẽ tăng lên khi một người không cùng kiệt có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới cùng kiệt trộn lẫn vấn đề cùng kiệt với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa cùng kiệt và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ cùng kiệt cũng hay được dùng cho ranh giới cùng kiệt tương đối.
Ngược với ranh giới cùng kiệt tương đối, các phương án tính toán ranh giới cùng kiệt tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới cùng kiệt tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội.
Các ranh giới cùng kiệt tương đối và cùng kiệt tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị.
Định nghĩa theo tình trạng sống
Cái gọi là định nghĩa tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập khi định nghĩa " cùng kiệt con người", thí dụ như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đưa ra chỉ số phát triển con người (tiếng Anh: human development index–HDI). Các chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức mua thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác. Trong "Báo cáo phát triển thế giới 2000" Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh các yếu tố quyết định khách quan cho sự cùng kiệt là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và tự trọng.
1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá cùng kiệt đói
1.1.2.1 Chuẩn của Thế giới
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm cùng kiệt tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm cùng kiệt tuyệt đối như sau: " cùng kiệt ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người cùng kiệt tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn cùng kiệt tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới cùng kiệt tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc.
1.1.2.2 Chuẩn của Việt nam qua các giai đoạn.
Ở nước ta, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực trong việc tổ chức thực hiện XĐGN đã đưa ra các mức xác định khác nhau về nghèo, đói tuỳ theo từng thời kỳ và từng vùng phát triển của đất nước.
Theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, chuẩn cùng kiệt của nước ta được xác định theo mức thu nhập bình quân bằng tiền của một người trong hộ gia đình ở từng vùng:
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo là: 80.000đ/người /tháng.
Vùng nông thôn đồng bằng là: 100.000đ/người /tháng.
Vùng thành thị là: 150.000đ/người /tháng.
Theo Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 7/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn cùng kiệt áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 được xác định theo mức thu nhập bình quân bằng tiền của một người trong hộ gia đình ở từng khu vực:
Khu vực nông thôn: 200.000đ/người /tháng
Khu vực thành thị: 260.000đ/người /tháng
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm cùng kiệt giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn cùng kiệt áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tiêu chuẩn cùng kiệt tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới 330.000 đồng/tháng hay 4.000.000 đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế).
1.2 Các nguyên nhân dẫn đến cùng kiệt đói
Những nguyên nhân chính dẫn đến cùng kiệt được liệt kê ra là: chiến tranh, cơ cấu chính trị (thí dụ như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng), cơ cấu kinh tế (phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ.
Yếu tố nguy hiểm chính cho sự cùng kiệt tương đối là thất nghiệp và thiếu việc làm. Ngoài ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính.
Cho đến thế kỷ 19 sự cùng kiệt nàn phần lớn không được xem như là có nguyên nhân từ xã hội mà là do lỗi lầm cá nhân hay "trời muốn". Cùng với công nghiệp hóa và các tranh cãi chung quanh "câu hỏi xã hội" tại châu Âu, quan điểm cho rằng hiện tượng cùng kiệt nàn phổ biến là kết quả của sự thất bại của thị trường và có thể được làm giảm thiểu bằng các biện pháp quốc gia. Thí dụ như ở Liên hiệp Anh, việc chống cùng kiệt chính là khởi điểm của một chính sách xã hội hiện đại. Thế nhưng trong thời gian gần đây hiệu quả của việc chống cùng kiệt bằng chính sách xã hội tại nhiều nước công nghiệp đã bị đặt câu hỏi vì nhiều hình thức cùng kiệt mới xuất hiện.
Nạn cùng kiệt ở Việt Nam và chương trình Xóa đói giảm nghèo
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (tiếng Anh: Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số cùng kiệt tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ cùng kiệt theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ cùng kiệt lương thực (%số hộ cùng kiệt ước lượng năm 2002) là 10.87%.
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra cùng kiệt đói ở Việt Nam nhưng nói chung cùng kiệt đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
1.2.1.1.1 Nguyên nhân khách quan


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

lamgiang89

New Member
Re: [Free] Xoá đói giảm cùng kiệt trên địa bàn huyện Tumơrông, tỉnh Kon Tum

cho mình xin link dowload ạ. Mình cảm ơn
 

daigai

Well-Known Member
Re: [Free] Xoá đói giảm cùng kiệt trên địa bàn huyện Tumơrông, tỉnh Kon Tum

Link mới update, mời bạn xem lại bài đầu
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top