daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 3
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. 3
2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. 4
3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. 6
CHƯƠNG II: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 7
1.Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. 7
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. 8
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân 9
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. 11
5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. 13
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. 15
CHƯƠNG III: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM. 16
1. Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng ngày càng rộng rãi và bền vững 16
2.Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa 18
3. Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI 20
CHƯƠNG IV: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN. 22
1. Thực trạng chung. 22
2. Nhiệm vụ và yêu cầu: 23
3. Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh: 24
4. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh: 25
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay: 25
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………30

LỜI MỞ ĐẦU
Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tốt bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Như Hồ Chí Minh đã nói: “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Có như vậy đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.
Chính vì lẽ đó mà chúng em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân”. Đây là một đề tài hay, có nội dung và ý nghĩa to lớn, nó còn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ. Bài học quý báu cho quá trình dựng nước và giữ nước. Bài tiểu luận của chúng em gồm bốn chương chính như sau:
I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
IV. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân.
Mặc dù các thành viên trong nhóm đã hết sức cố gắng để bài thảo luận được hoàn thiện, tuy nhiên do yếu tố khách quan và chủ quan nên bài thảo luận khó tránh khỏi những hạn chế nhất định và vẫn còn những nội dung mới để tiếp tục, bổ sung và sửa chữa, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn đọc để bài thảo luận của chúng em hoàn thiện hơn.

Nhóm sinh viên thực hiện
NHÓM 9








CHƯƠNG I :
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư tưởng -lý luận và thực tiễn rất phong phú.
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái , tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Tinh thần yêu nước gắn kết với ý thức cộng đồng , ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai dịch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Từ ngàn đời nay, đối với mỗi người Việt Nam tinh thần yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết trở thành đức tính lẽ sống tự nhiên của mỗi người:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng;
Thành một triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;
Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
Tình làng, nghĩa nước.
Nước mất thì nhà tan.
Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.
Tất cả đã in đậm trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình – làng xã – quốc gia (nhà – làng – nước) và cũng trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai cấp trong xã hội Việt Nam.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hóa dân gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành phép đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”,...Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở một phần tư đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định “từ xưa tới nay, mỗi khi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn phải phát huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Rõ ràng truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của phong trào ấy đều được người nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, các thế hệ yêu nước người Việt Nam đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại được các thế lực đế quốc xâm lăng. Vận mệnh của đất nước đòi hỏi có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy những hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, những yêu cầu khách quan mới của yêu cầu lịch sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác định: tui muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tui sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của giai cấp tư sản cũng như tại sao các cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách mạng “không đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ, và cũng thấy rõ những hạn chế: các dân tộc thuộc địa chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với Lênin, người lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đên bước ngoặt quyết định trong việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng Tháng Mười một cách cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường cách mạng Tháng Mười, và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới: đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc muốn bóp chết nhà nước Xô viết non trẻ, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử xã hội nhân loại. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng Tháng Mười không chi qua báo chí sách vở, mà còn ở ngay trên đất nước của Lênin. Điều nay đã giúp người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc “cách mạng đến nơi”, để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường cách mạng mới những năm sau này.
Đối với các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng (đoàn kết các dân tộc, các giai tầng, các đảng phái và tôn giáo...nhắm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc – Cộng” của Tôn Trung Sơn).
3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, “ Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”,...
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa thực dân chủ yếu ở chỗ vừa hoạt động cách mạng, Người vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin , vừa tìm hiểu về cách mạng Tháng Mười, vì vậy Người đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề cốt lõi nhất của học thuyết cách mạng và khoa học của các ông. Nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, những bài kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của người về đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Người thực hiện khối Liên minh giai cấp; thành lập mặt trận; đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng thế giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân khán chiến, toàn dân kiên quốc. Người chủ trương không phân biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là người Việt Nam đều đứng lên giành quyền độc lập.

CHƯƠNG II:
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có phần nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi tới kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.
Đoàn kết là điểm mẹ: “Điều này mà thực hiện tốt thì sẽ đẻ ra con cháu đều tốt…”
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào Mặt trận thống nhất. Để làm được viếc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông ấy ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn bộ Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam gồm trong 8 chữ: ĐOÀN KẾT, TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là cách mạng hay kháng chiến để giành đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi
Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự cùng kiệt nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai... Đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.
Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.
Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế?
Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.
Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh:
- Xây dựng đảng cộng sản việt nam vững mạnh :
+ Xây dựng nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam trong sạch, vững mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
+ Luôn luôn chăm lo xây dựng mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam được cấu thành bởi 3 thành tố: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đây là một thể thống nhất, không đối lập và không tách rời nhau.vấn đề làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ qua quyền giám sát của dân thông qua việc các đại biểu quốc hội chất vấn các thành viên chính phủ tại mỗi kỳ họp quốc hội; người dân có quyền tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cho phép người dân được tham gia trực tiếp vào việc lập kế hoạch, quản lý và thực thi các chính sách phát triển tại địa phương. Người dân cũng được tạo điều kiện phát triển kinh tế trong khuôn khổ pháp luật.
Dựa vào sức mạnh của toàn dân, lấy dân làm gốc:
Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó cần phát triển nguồn nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhân dân. ‘‘Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong ’’.
Dân là gốc của nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Vì vậy, chúng ta cần:
- Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở:
- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính
- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.
- Đội ngũ nhân lực có trình độ cao.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tạo thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.
- Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân chủ của một xã hội càng cao. Dân phải tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế- xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Mọi âm mưu và hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất nước, cần được lên án.
- Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân.
Phát triển con người:
Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội.
Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng.
Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần kinh tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là trong điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá và tự động hoá ngày càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có những sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi hỏi và rèn luyện người công nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công nhân. Đó là tính kỷ luật, chính xác, tính tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó cũng là những phẩm chất mà người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có. Vì vậy hiện nay, chú ý phát triển đội ngũ cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân vẫn là một hướng đi đúng cần quan tâm.
Đất nước ta cũng có một đội ngũ trí thức khá lớn. Họ có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật... Họ xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau kể cả nông dân, công nhân. Họ có mối liên hệ khá gần gũi với các giai cấp và tầng lớp khác, với quần chúng lao động. Họ có thể hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, những giá trị của quần chúng lao động. Rất nhiều người trong số đó có khả năng lãnh đạo, quản lý.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao, chúng ta phải khắc phục những định kiến vẫn còn rơi rớt. Đó là tâm lý coi thường những người xuất thân từ các giai cấp lao động, đặc biệt từ giai cấp công nhân, nghĩ rằng họ quen lao động chân tay, ít chữ nghĩa, ít hiểu biết, hạn chế tầm nhìn đối với những vấn đề đại sự quốc gia. Do đó chỉ chú ý vào những người ‘‘ có học ’’, đã qua trường lớp chính quy, bài bản.
Ngược lại, có tâm lý coi thường hay kỳ thị những người trí thức, coi họ chỉ sách vở, quan liêu, không thực tế, thiếu hiểu biết cuộc đời. Thậm chí coi họ là điển hình của thói tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa, yếu đuối. Do đó chỉ chú ý đối với những người đã từng kinh qua ‘‘ thực tiễn’’.
Tuy nhiên, nhìn một cách thực tế, hậu quả của cả hai khuynh hướng đều không tốt. Chúng ta phải đề phòng một khuynh hướng nửa vời trong đội ngũ cán bộ, một mặt chạy theo vỏ trí thức, với những văn bằng, học vị nọ kia chứ không thực sự là trí thức, mặt khác cũng không có lập trường quan điểm, tác phong công nhân thực sự. Đây là một tình trạng chứa đựng nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội trong đội ngũ cán bộ của chúng ta. Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi, chúng ta cần ôn lại mấy bài học lớn của Bác:
- Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc.
- Đã thế thì mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
- Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người vn đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này.


KẾT LUẬN
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với 20 năm trước. Đại hội IX và X của Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Tags: tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay ở chi bộ site:ket-noi.com, Quan điểm Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, Chủ nghĩa Xã hộTư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng trong điều kiện hiện nayi và vận dụng phân tích điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 4.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới., trách nhiệm của thế hệ trẻ với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, tiểu luận Đề tài 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẾ HỆ TRẺ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÀY ?, Chương I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc, 1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam:, liên hệ bản thân tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết, Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam, sự vận dụng đại đoàn kết dân tộc của dảng cộng sản trong thời điểm hiện nay
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tóm tắt tư tưởng Hồ Chí Minh Môn đại cương 1
D giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người Văn hóa, Xã hội 0
D Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Môn đại cương 0
D TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Môn đại cương 0
H Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh Môn đại cương 0
D những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những nguyên tắc đó để rèn luyện đạo đức cá nhân Môn đại cương 0
D Tư tưởng hồ chí minh vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản vào công cuộc xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Tìm hiểu sự vận dụng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản trong việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Những phẩm chất đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh Vận dụng những phẩm chất này vào xây dựng đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay? Môn đại cương 0
D Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay Môn đại cương 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top