Download Tiểu luận Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính trong việc góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính
LỜI NÓI ĐẦU

Thị trường tài chính - một thị trường đang trên đà hình thành là nơi diễn ra các hoạt động luân chuyển, đầu tư các nguồn lực xã hội, cung ứng các nguồn vốn cho hoạt động kinh tế. Điều này đã góp phần làm thay đổi sâu sắc, từ những thói quen tiêu dùng, tiết kiệm tiền nhãn rỗi trong tiêu dùng đến những bước phát triển vĩ mô đánh dấu sự hoàn thiện của nền kinh tế thị trường. Nó góp một phần đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo thế và lực mới cho dân tộc ta bước vào thế kỷ XXI.
Tuy vậy, sau 15 năm đổi mới, thị trường tài chính còn là một vấn đề khá mới mẻ khi mà phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính là một tất yếu khách quan cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Những hình thành ban đầu còn nhỏ bé, manh mún, chưa thực sự tạo được động lực cho phát triển. Chúng ta không chỉ tụt hậu so với sự phát triển hàng trăm năm của thị trường tài chính thế giới mà còn so với cả sự phát triển của khu vực.
Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực năm 97 xảy ra còn để lại nhiều hậu quả nặng nề buộc chúng ta phải nhận thấy rằng vấn đề phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính càng trở nên quan trọng hơn, cấp thiết hơn cho việc xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh, ổn định, năng động.
Để có thể góp một ý kiến chung vào việc tìm hiểu, đánh giá nghiên cứu phạm trù "Thị trường tài chính" cũng là để nâng cao hơn nữa khả năng về chuyên ngành mình đang học, em đã chọn đề tài " Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính trong việc góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính".
Bài viết chủ yếu đưa ra các vấn đề xung quanh thị trường tài chính từ đó có những đánh giá, nhìn nhận và các giải pháp cho sự phát triển hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam.

Đề tài gồm có các phần như sau (Mục lục):
Lời nói đầu.
Nội dung
Phần I: Tổng quan về TTTC:
I/ Khái niệm chung về TTTC.
1. Tiền đề ra đời, tồn tại của TTTC.
2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của TTTC.
3. Cấu trúc TTTC.
4. Các công cụ trên TTTC
II. Thị trường tài chính thế giới.
Phần II. TTTC Việt Nam.
I. Khái quát sơ lược về TTTCVN
1. Các điều kiện hình thành TTTCVN
2. Đặc điểm của TTTC Việt Nam hiện nay.
3. Chức năng của TTTCVN.
II. Thực trạng của TTTCVN hiện nay.
1. Thị trường tiền tệ.
2. Thị trường vốn.
III. Phát triển hoàn thiện TTTCVN giai đoạn hiện nay.
1. Hoàn thiện TTTC là tất yếu khách quan.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC.
3. Xây dựng mô hình cho các loại thị trường VN.
Kết luận chung.

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Tiền đề ra đời và tồn tại của thị trường tài chính.
Tài chính, thị trường tài chính (TTTC) chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan xuất hiện, tồn tại.
Như vậy, phạm trù TTTC cần được đánh giá xem xét như là một vấn đề kinh tế xã hội khách quan, nó có tính kinh tế và lịch sử.
Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu phát triển bước đầu hình thành nên một nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Tiền tệ cũng xuất hiện như một đòi hỏi khách quan để có thể trao đổi, mua bán hàng hoá.
Chủ nghĩa tư bản trải qua quá trình hình thành và phát triển đã đưa kinh tế hàng hoá lên thành kinh tế thị trường, đưa ra những tiền đề cần thiết để nảy sinh, hình thành TTTC. Như vậy sự phát triển của kinh tế thị trường sự tham gia của tiền tệ vào hoạt động kinh tế, sự tích lũy tập trung tư bản... là những tiền tệ quan trọng hình thành TTTC.
Các nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện TTTC, từ việc in ấn, phát hành đều lưu thông, huy động tiền tệ và các nguồn lực sản xuất quốc gia đến việc phân bổ các nguồn lực tài chính ra toàn xã hội và còn vượt qua khỏi phạm vi quốc gia hình thành nên TTTC quốc tế.
Những nhân tố trên đã tạo điều kiện cho sự phát triển của TTTC và ngược lại, đến lượt mình, TTTC đã làm cho nền kinh tế xã hội phát triển ở bước cao hơn.
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá các nền kinh tế, TTTC đã mở rộng ra phạm vi toàn thế giới và đang ngày càng đóng góp và nền kinh tế thế giới. Chính xu thế toàn cầu hoá đã hội nhập các TTTC lại với nhau biến các TTTC nhỏ bé độc lập thành những TTTC khổng lồ, hoạt động phụ thuộc lẫn nhau và tạo động lực cho nhau cùng phát triển.
Việt Nam chúng ta cần đánh giá đúng bản chất ra đời, tồn tại của TTTC từ đó mà dựa trên các quy luật khách quan để xây dựng một TTTC hợp lý, từng bước phát triển, hội nhập vào quốc tế, khu vực.

2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của TTTC.
TTTC là nơi diễn ra các hoạt động luân chuyển vốn trực tiếp từ các tổ chức cá nhân có vốn sang các tổ chức cá nhân cần vốn đảm bảo cho các hoạt động kinh tế xã hội hàng ngày.
Mọi nền kinh tế đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển vào có thể được huy động từ nhiều nguồn nhà nước, ngân hàng... và cuối cùng là qua trung gian TTTC - một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trường về phương diện cung cấp và luân chuyển vốn.
Nếu như trên thị trường hàng hoá, đối tượng mua bán là các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ thì trên TTTC, đó là vốn, một loại hàng hoá đặc biệt. Người bán dư thừa tiền đem nhượng đi với tư cách là vốn - hàng hoá nhằm thu một khoản tiền lãi nhất định đáp ứng được vốn cho người mua để phát triển mở rộng kinh doanh, đầu tư hay tiêu dùng. Thực chất của mua, bán trên TTTC là mua bán quyền sử dụng vốn.
Giá cả trên TTTC chính là lợi tức tiền cho vay hay lợi tức cổ phần và giá cả này nhiều khi không được xác định trước (như lợi tức cổ phần) và đem lại sự hấp dẫn cũng như rủi ro là rất cao.
Như vậy, TTTC là một thực thể trừu tượng gắn liền với việc phân bổ sử dụng các nguồn lực tài chính với các loại hàng hoá đặc biệt, đó là vốn, quyền sử dụng vốn. Các công cụ chủ yếu trên TTTC là các loại chứng khoán có giá đưa lưu hành qua lại trong các hoạt động tài chính.
Thị trường tài chính có một số vai trò chủ yếu sau:
+ TTTC đóng vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong xã hội tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Vốn là tiền đề, là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, là một trong ba yếu tố đầu vào quan trọng nhất của sản xuất (lao động, kỹ thuật), thiếu vốn lại là trở ngại chính kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là giai đoạn CNH, HĐH. Nền kinh tế phát triển nhanh đòi hỏi phỉa sử dụng tối đa các nguồn lực tài chính. Thông qua cơ chế hoạt động của TTTC đã thu hút tất cả những nguồn vốn nhỏ bé, phân tán rải rác thành những nguồn lực to lớn tài trợ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế.
+ TTTC đóng vai trò quan trọng nâng cao hiệu quả vốn tài chính, tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho việc luân chuyển vốn từ lĩnh vực kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Sử dụng vốn - hàng hoá luộn phải trả một giá nhất định, điều đó buộc người sử dụng vốn phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn đảm bảo phương án kinh doanh tối ưu, đưa ra các biện pháp từ đa giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất và trả lãi của vốn. Mặt khác, do sự tự do lựa chọn hình thức đầu tư, sự dễ dàng mua đi bán lại giúp luân chuyển vốn trong nền kinh tế được linh hoạt hơn.
+ TTTC đóng vai trò quan trọng để thực hiện các chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, điều hoà các hoạt động kinh tế xã hội, thực hiện giám sát điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô.
Thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính trên thị trường, các hệ thống giám sát của nhà nước có thể theo dõi sát sao các hoạt động không chỉ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà cả sản xuất kinh doanh.
Chính phủ có thể điều tiết lượng cung - cầu tiền tệ đảm bảo bình ổn hoạt động của nền kinh tế, bù đắp thâm hụt kích cầu tiêu dùng. Mặt khác, nhà nước có thể thông qua chính sách lãi suất hướng hay hạn chế vào một số lĩnh vực sản xuất, ưu tiên các ngành hướng về xuất khẩu, mũi nhọn v.v...
+ TTTC tạo điều kiện thuận lợi trong hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài.
Do việc hình thành và phát triển TTTC quốc gia hàng năm ngoài xu thế quốc tế hoá. TTTC tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, giúp các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn mua cổ phiếu trực tiếp trên thị trường, góp vốn liên doanh đầu tư sản xuất... Thông qua hệ thống luật hoàn chỉnh và tính chất "mở cửa" có thể cho phép nới lỏng, thu hẹp hoạt động đầu tư nước ngoài. Điều đó đảm bảo tính hợp lý cho phát triển kinh tế đối ngoại.
Như vậy, TTTC đóng một vai trò hết sức to lớn trong phát triển kinh tế xã hội vai trò đó chỉ được phát huy khi nó được hình thành trong một điều kiện thích hợp và hoạt động trong một cơ chế linh hoạt, lành mạnh.
Tuy vậy, bản thân nền KTTT cũng như TTTC đều có những khuyết tật của nó đòi hỏi phải nắm vững cơ chế vận hành của TTTC, có những biện pháp hữu hiệu giám sát và thúc đẩy hoạt động của nó.
3. Cấu trúc của TTTC.
Là một thực thể trừu tượng, đa dạng, TTTC có thể được xem xét, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Mỗi góc độ đưa ra một đặc trưng riêng trong sự đa dạng của TTTC.
1. Dựa trên cách huy động vốn: Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần:
a. Thị trường nợ:
Là một bộ phận của TTTC, ở đó diễn ra việc trao đổi mua bán các công cụ nợ. Công cụ nợ là sự thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay mượn mà người đi vay cam kết trả.
Trên thị trường nợ, người đi vay sẽ cam kết trả cho người cho vay cả gốc và lãi trong một kỳ hạn nhất định với cách thoả thuận.
Thông qua cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, các công cụ nợ được huy động từ những nguồn lực tài chính nằm rải rác, thậm chí là rất nhỏ bé về mặt giá trị. Từ những nguồn vốn huy động được, tổ chức tài chính cho vay đối với doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng của chính phủ, dân chúng, việc cho vay được dựa trên sự thoả thuận của hai bên và cung cầu trên thị trường là cơ sở ấn định giá của vốn - hàng hoá.
Tuỳ vào mục đích vay mà có thể có những kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ hạn thường có lãi suất ổn định cho cả kỳ vay. Tuy vậy, các khoản vay dài hạn thường có lãi suất cao hơn các khoản vay ngắn hạn do được sử dụng đầu tư vào các ngành lâu dài và ổn định lực, tuy vậy rủi ro cũng cao hơn. Các khoản vay dài hạn (thường từ trên 3 đến 5 năm) cần được khuyến khích để đầu tư vào xây dựng các công trình lớn đòi hỏi vốn lớn, dài hạn, chậm thu hồi nhưng rất cần thiết cho nền kinh tế.
Hoạt động trên thị trường nợ phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, tuy vậy mối quan hệ đó là rất phức tạp, chồng chéo và có thể diễn ra nhiều lần cho cùng một khoản vốn. Một cá nhân, tổ chức có thể vừa là người đi vay, cũng lại là người cho vay, chẳng hạn như các tổ chức tài chính trung gian, các công ty sản xuất...
Lãi suất trên thị trường tác động lớn vào hoạt động của thị trường nợ, nó quyết định đến cung cầu vốn nợ và cả thời hạn của các khoản vay. Điều chỉnh một mức lãi suất ổn định, hợp lý sẽ làm cơ sở cho tính ổn định thị trường.
b. Thị trường vốn cổ phần.
Là một bộ phận của TTTC, hoạt động thông qua việc phát hành mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Các cổ phiếu, trái phiếu là các chứng từ công nhận quyền góp vốn của cổ đông.
Thông qua cơ chế hoạt động huy động vốn của các công ty cổ phần, các công ty này phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà hiện nay chủ yếu là trên TTCK, các nguồn vốn nhãn rỗi sẽ trực tiếp đầu tư vào hoạt động ở các công ty. Vốn được thu hút từ
Khi lạm phát lên nhanh và cao, chính phủ có thể thắt chặt tiền tệ thông qua hoạt động của NHTW (tăng lãi suất chiết khấu, định mức tín dụng) tiến hành mọi biện pháp thắt chặt tiền tệ. Đồng thời, chính phủ cùng nên giảm chi tiêu và giảm thuế cố gắng duy trì mức sản lượng cân bằng.
Khi nền kinh tế đình đốn, giảm phát, tỷ lệ thất nghiệp cao, có thể tăng cung ứng tiền tệ, hạ lãi suất ngân hàng, lúc đó khối lượng tiền tệ sẽ tăng mạnh hơn, sản xuất phát triển, tuy vậy vẫn phải đề phòng nguy cơ lạm phát tiềm ẩn.
Việc điều hành tiền tệ nên sử dụng đồng thời các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ cho vay chiết khấu, hạn mức tín dụng và điều hành lãi suất. Mỗi công cụ có ưu điểm, nhược điểm riêng, phát huy mỗi công cụ là tuỳ vào hoàn cảnh của từng thời điểm.
Việc áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt cũng ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ. (Về lâu dài thì nó ảnh hưởng đến thị trường vốn). Mỗi khi hạ thấp giá trị đồng nội tệ cần tranh thủ tăng cường xuất khâủa, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, 80% nguyên liệu cho hàng xuất khẩu lại phải nhập khẩu (dệt may, giầy da, nguyên liệu, máy móc cho chế biến). Chính vì vậy tỉ giá hối đoái cao cho đồng nội tệ (hay đồng Việt Nam lên giá) lại là điều giúp tăng xuất khẩu. Đặc biệt, nó sẽ giúp đồng Việt Nam mạnh hơn trong khu vực và tương lai có giá trị chuyển đổi, lúc đó đảm bảo cho thị trường tiền tệ linh hoạt, ổn định hơn.
Cần chuyển mọi hoạt động tiền tệ sang cơ chế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát ở tầm vĩ mô, nới lỏng, tính đến thả nổi lãi suất, đảm bảo cho các thành viên tham gia thị trường bình đẳng. Việc bình đẳng giữa các tổ chức, thành viên đặc biệt là các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính sẽ tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh, khi đó các doanh nghiệp , tổ chức sẽ lựa chọn được cách kinh doanh cơ lợi nhất, đảm bảo tự đồng điều chỉnh cơ cấu kinh tế xã hội, tránh độc quyền. Việc áp dụng một chế độ lãi suất bình đẳng sẽ phản ánh đúng cung - cầu tiền tệ thị trường, đây cũng là một điều kiện cơ bản hình thành thị trường tiền tệ.
Ở xây dựng một môi trường kinh tế xã hội ổn định, bình ổn chính trị, hệ thống pháp luật đồng bộ cũng chính là xúc tác cho một thị trường tiền tệ ổn định ở Việt Nam.
b. Mô hình thị trường vốn.
Xây dựng một thị trường vốn như thế nào là yêu cầu cấp bách cho tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại Việt Nam.
Đối với thị trường vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, các cơ chế về lãi suất, tỷ giá cũng rất quan trọng. Với một tỷ giá, lãi suất linh hoạt nhưng lành mạnh, ổn định sẽ đảm bảo bình ổn cho thị trường vốn. Bởi vì khi lãi suất, tỷ giá lên xuống thất thường, đặc biệt là vấn đề lạm phát cao sẽ có nguy cơ biến thị trường vốn thành thị trường tiền tệ. Do đó, nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, vai trò của NHTW, bình đẳng về lãi suất, tỷ giá thả nổi có didều tiết... cũng luôn là điều cần thiết cho thị trường vốn Việt Nam.
Cung cấp vốn cho thị trường, hệ thống ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó phải xây dựng được hệ thống ngân hàng đa năng theo cơ chế kinh doanh giao vốn và có trách nhiệm bảo toàn sinh lời vốn. Đảm bảo cho hệ thống ngân hàng được tin học hoá, đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề thông tin không cân xứng, vì ở Việt Nam nói riêng (cũng như các nước đang phát triển nói chung) cho ai vậy, vay để làm gì vẫn là một câu hỏi quan trọng (còn ở các nước phát triển thì quan tâm đến cho vay có lợi nhuận cao không và nhiều khi được thế chấp đảm bảo bằng tài sản đầy đủ).
Phát triển một nền kinh tế vĩ mô đi đôi với lại phân phối lại thu nhập công bằng chính là cơ sở cho việc nuôi dưỡng nhiều nguồn vốn thu, đảm bảo cung cấp cho thị trường. Bởi vì nước ta có 80% dân số hoạt động nông nghiệp thu nhập thấp và bấp bênh, điều đó khiến cho sức mua kém, khả năng đóng góp cung cấp vốn hạn chế, lãng phí lớn một nguồn nhân lực dồi dào.
Nâng cao thu nhập sẽ góp phần nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ cần nhiều vốn dài hạn hơn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó lại tăng thu nhập, đóng góp vốn cho thị trường, giải quyết được nhiều mục tiêu xã hội. Vấn đề đặt ra là cần phân phối lại thu nhập như thế nào cho hợp lý, hài hoà.
Thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay còn đơn điệu, nhỏ bé. Tăng dung lượng hàng hoá cho thị trường là điều cần thiết. Trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, cổ phiếuv.v... cần được đa dạng hoá. Tạm thời cần tập trung hoá thị trường song về lâu dài, cần mở rộng ra nhiều trung tâm giao dịch phù hợp tập trung sẽ vừa đảm bảo thu hút nhiều vốn dài hạn, vừa giảm chi phí giao dịch.
Về TTCK, việc tăng dung lượng thị trường thêm sôi động là quan trọng. Đảm bảo thông tin thị trường, lựa chọn các công ty điển hình đưa vào giao dịch tập trung. Mở thêm nhiều điểm phi tập trung để các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội hơn cho huy động vốn và mở rộng kinh doanh, nâng cao uy tín,. Nới lỏng quy định về vốn pháp định song lại hạn chế hơn về điều kiện kinh doanh.
Giám định TTCK thường xuyên, ngăn chặn các hoạt động đầu cơ gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh doanh nghiệp, đặc biệt là sự lũng đoạn của tư bản nước ngoài, mặc dù cần mở cửa hơn nữa để huy động vốn. Nên khuyến khích đầu FDI, vốn ODA cho các công trình dài hạn, chỉ vay thương mại khi cần thiết.
ở Việt Nam, về lâu dài có thể mở thêm trung tâm giao dịch Hà Nội thúc đẩy kinh tế khu vực miền Bắc, áp dụng công nghệ tiên tiến kết nối nhiều trung tâm lớn tạo sự thống nhất, đặc biệt là trong tình hình công nghệ thông tin thế giới và cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam đang phát triển nhanh. Việc mở rộng thêm trung tâm giao dịch và kết nối vừa đa dạng hoá vừa chuyên môn hoá, giảm được các chi phí giao dịch trên thị trường.
Riêng nhu cầu vốn dài hạn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào miền núi nông thôn... là rất lớn. Cần có chế độ khuyến khích bằng lãi suất ưu đãi sẽ tăng nhu cầu về vốn, đảm bảo cho tính khả thi của dự án lại giảm cho Nhà nước nhiều gánh nặng.
Cuối cùng, một môi trường kinh tế xã hội ổn định, pháp luật đồng bộ, nâng cao vai trò Nhà nước cũng là tất yếu cần thiết cho một thị trường với Việt Nam.
c. Đối với mô hình thị trường cấp I và thị trường cấp II.
Đảm bảo tính cơ sở của thị trường cấp I, đó là việc tăng hàng hoá cho thị trường cấp I. Việc áp đặt một giá hợp lý cho thị trường cấp I là quan trọng bởi vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận doanh nghiệp.
Song cũng cần chú ý đến tính tạo động lực của thị trường cấp II, việc định giá, khối lượng của thị trường cấp I ảnh hưởng lớn đến việc mua bán trên thị trường cấp II.
Mở rộng mạng lưới phân phối, xen kẽ giao dịch sơ cấp và thứ cấp, làm mờ đi ranh giới giữa hai thị trường cũng là điều cần thiết để cho các giao dịch được đồng bộ, liên tục, tạo được sự an toàn, thông tin đầy đủ và cũng tránh các rủi ro cho giao dịch.
Đối với Việt Nam, khi mà TTTC còn chưa hoàn thiện, việc mở rộng thị trường cấp II (và cả thị trường cấp I) cần được xét trung dài hạn, gắn với nhiều yếu tố vĩ mô về kinh tế, xã hội.
Tóm lại, để xây dựng được một mô hình hoàn chỉnh cho TTTC nói chung các loại thị trường tiền tệ, vốn, sơ cấp, thứ cấp nói riêng... liên quan trực tiếp đến nhiều yếu tố. Đặc biệt không thể bỏ qua mối quan hệ mật thiết giữa các loại thị trường vì mỗi thị trường trên là một bộ phận của TTTC được xét theo nhiều góc độ. Sự hoàn chỉnh và phù hợp giữa mỗi thị trường là cơ sở, tiền đề cấu thành nên một TTTC phát triển và hoàn thiện.

KẾT LUẬN

Phạm trù "Thị trường tài chính" mặc dù là một vấn đề có khá mới mẻ cho một nền kinh tế 15 năm mở cửa đổi mới song bước đầu, TTTC ở Việt Nam đã có bước hình thành và chuyển biến mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Khẳng định vai trò to lớn của TTTC không chỉ là huy động mọi nguồn lực xã hội và công cuộc phát triển đất nước mà còn nâng cao hiệu quả nền kinh tế, điều hoà hoạt động kinh tế vĩ mô và mở cửa hội nhập khu vực quốc tế là một tất yếu khách quan; đó là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá kịp thời và đang từng bước xây dựng, phát triển hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI với trách nhiệm nặng nề. Mục tiêu hoàn thành công nghiệp hoá vào năm 2020 đã đặt ra yêu cầu huy động một lượng vốn rất lớn trong thời gian trước mắt.
Muốn nâng cao và phát huy được nội lực trong nền kinh tế cũng như thu hút tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, hơn bao giờ hết xây dựng một TTTC phát triển, ổn định, lành mạnh và hoàn thiện là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Điều quan trọng nhất để có được một TTTC theo đúng nghĩa của nó chính là lòng tin của dân chúng, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và sự an toàn, lành mạnh, hấp dẫn của nền kinh tế thị trường. Yếu tố này chỉ có thể có được trong một môi trường kinh tế xã hội ổn định, một môi trường đã được đảm bảo bằng pháp lý với cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển.
Nhà nước là trọng tài trung tâm của nền kinh tế cần phát huy đúng vai trò kinh tế của mình, hài hoà giữa quản lý kinh tế và quản lý hành chính, tạo cho một đất nước một thế và lực mới với những cơ hội lớn lao bước vào thế kỷ XXI.
Chúng ta luôn ý thức của một sự tụt hậu, song cũng không nên quá nóng vội chủ quan duy ý chí áp đặt một sự đi lên nhanh chóng của TTTC, trong mỗi hoạt động, mỗi sự thúc đẩy phát triển cần luôn dựa vào sự vận động của các quy luật khách quan, dựa vào yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong nước và quốc tế để có thể đưa ra các chính sách cho phù hợp. Thực tiễn từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 7/97 đã chứng minh điều đó, tài chính - tiền tệ là vấn đề trừu tượng nhạy cảm luôn đòi hỏi mỗi chúng ta một sự năng động và thận trọng.
Chính vì vậy, mỗi chúng ta, đặc biệt là các nhà tài chính tương lai luôn phải ý thức tìm tòi, nghiên cứu các phạm trù về thị trường tài chính - tiền tệ, không ngừng học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để có thể tham gia và đóng góp nhiều nhất năng lực của mình vào việc xây dựng phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Trước mắt, cần tìm cách để đưa các hoạt động tài chính vào các phương tiện thông tin đại chúng, vào cuộc sống hàng ngày của dân chúng làm cơ sở, tiền đề để có thể huy động tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển.
Phạm trù tài chính, TTTC là một phạm trù trừu tượng song không phải không nắm bắt, kiểm soát được. Hiểu rõ và vận dụng tốt các kiến thức cũng như kinh nghiệm của các nước phát triển, chúng ta hoàn toàn có thể hình thành một TTTC phát triển và hoàn thiện.



Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top