daigai

Well-Known Member
Không được tham gia tố tụng, làm tư vấn pháp luật, thay mặt ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác, làm sao người tập sự hành nghề luật sư có thể “tự bơi” một mình khi mãn hạn tập sự?

Luật Luật sư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2007, quy định từ nay về sau sẽ không còn chức danh “luật sư tập sự” nữa mà phải gọi họ là “người tập sự hành nghề luật sư”. Cùng với việc thay đổi tên gọi ấy, người tập sự hành nghề luật sư không còn tư cách “luật sư” nữa, không được làm bất cứ việc gì ngoài việc “giúp” luật sư hướng dẫn mình học nghề. Liệu chuyện này đã hợp lý?

Không cho xuống nước…

Khoản 3 Điều 14 Luật Luật sư nêu rõ: “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”.

Điều luật trên có nghĩa là người tập sự hành nghề luật sư (NTSHNLS) không được tham gia tố tụng ở các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, nhất là tham gia tại các phiên toà để bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. NTSHNLS không được tham gia hoạt động tư vấn pháp luật, nghĩa là không được tiếp khách hàng, hướng dẫn, góp ý kiến về mặt pháp luật và giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ (đơn từ , hợp đồng, di chúc, đến mẫu hồ sơ …) liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong quá trình giao dịch, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo…

Cạnh đó, NTSHNLS không được thay mặt ngoài tố tụng cho công dân khác, nghĩa là không được làm thay mặt cho khách hàng để giải quyết các công việc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi người đó tập sự với tư cách các nhân làm việc theo hợp đồng lao động. NTSHNLS cũng không được làm mọi thứ dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính (thí dụ dẫn dắt, đưa khách hàng đến các cơ quan thẩm quyền để giải quyết công việc theo yêu cầu); giúp đỡ, tư vấn hay thay mặt cho khách hàng trong quá trình khiếu tố; biên dịch các loại giấy tờ hay phiên dịch các cuộc tiếp xúc, xác nhận giấy tờ và giúp đỡ khách hàng thực hiện các công việc khác…

Như vậy là NTSHNLS bị cấm tiệt, cấm nhận làm tất cả mọi hoạt động thuộc phạm vi nghề nghiệp của luật sư, thậm chí không được làm những việc mà mọi công dân bình thường đều được làm (như thay mặt theo uỷ quyền, thay thế các đương sự tham gia tố tụng tại phiên toà; giúp thảo đơn, nộp đơn; dịch tài liệu; thay mặt theo uỷ quyền để tham gia khiếu nại, tố cáo; giúp giải thích, hướng dẫn luật lệ cho người khác)… Những việc này, mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự (không bị bệnh tâm thần, không còn khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình) đều được làm nhưng NTSHNLS không được làm. Vì vậy, có người cho rằng về tư cách pháp lý, NTSHNLS cũng được liệt vào như loại người … mất năng lực hành vi dân sự (?!).

… Làm sao biết bơi?

Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy lúc đầu (theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987), các luật sư tập sự đều được bào chữa (ở mọi cấp toà) và làm mọi việc giúp đỡ pháp lý cho khách hàng như luật sư thực thụ. Sau đó (theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001), luật sư tập sự vẫn có quyền và nghĩa vụ như luật sư, trừ một số việc “quan trọng” chưa được làm như đứng ra thành lập văn phòng luật sư, ký văn bản tư vấn pháp luật, tham gia các vụ án từ toà án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, toà án quân sự quân khu trở lên…

Nay thì luật mới cấm hết. Trong suốt cả 18 tháng tập sự, NTSHNLS chỉ được “giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp” mà không được trực tiếp làm dịch vụ pháp lý gì cho khách hàng cả. Chỉ được phụ trợ giúp việc cho luật sư hướng dẫn, liệu có phải đó là hay khi mà so với các ngành nghề khác, dù có thể có nguy hiểm thế mấy cho xã hội đi nữa, hễ đã “tập sự” là phải được thực tập, làm thử cho quen với mọi công việc của nghề? Lúc tập sự không được tập làm với sự giám sát, kèm cặp của “ông thầy” thì khi mãn hạn tập sự làm sao “tự bơi” một mình?!

Lâu nay các giám khảo sát hạch luật sư tập sự để cho làm luật sư thực thụ, họ thường hỏi người tập sự đã ra toà được mấy lần, cãi cọ ra sao, tư vấn cho khách hàng như thế nào… Tương lai đây có lẽ các giám khảo “kiểm tra tay nghề” phải đổi lại cách sát hạch cho phù hợp với luật mới: Bạn đã được “dòm” mấy phiên toà có luật sư cãi? Bạn đã nghe được luật sư tư vấn cho khách hàng mấy bận. Bạn có biết viết đơn giùm người khác là đã vi phạm pháp luật không? Không được tư vấn mà lại biết đủ chuyện của người ta cũng có thể là xâm phạm “bí mật đời tư, bí mật thông tin” của nghề?...

Những điều đó và hậu quả của nó đang là mối ưu tư của ngiều người, nhất là những NTSHNLS! Vấn đề này cần được cơ quan thẩm quyền giải thích rõ hơn khi mà Nghị định 28 ngày 26-2-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Luật sư cũng như Thông tư 02 ngày 25-4-2007 của Bộ Tư pháp đều chưa hề “đả động” đến

Luật Luật sư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2007, quy định từ nay về sau sẽ không còn chức danh “luật sư tập sự” nữa mà phải gọi họ là “người tập sự hành nghề luật sư”. Cùng với việc thay đổi tên gọi ấy, người tập sự hành nghề luật sư không còn tư cách “luật sư” nữa, không được làm bất cứ việc gì ngoài việc “giúp” luật sư hướng dẫn mình học nghề. Liệu chuyện này đã hợp lý?
Không cho xuống nước…
Khoản 3 Điều 14 Luật Luật sư nêu rõ: “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”.
Điều luật trên có nghĩa là người tập sự hành nghề luật sư (NTSHNLS) không được tham gia tố tụng ở các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, nhất là tham gia tại các phiên toà để bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. NTSHNLS không được tham gia hoạt động tư vấn pháp luật, nghĩa là không được tiếp khách hàng, hướng dẫn, góp ý kiến về mặt pháp luật và giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ (đơn từ , hợp đồng, di chúc, đến mẫu hồ sơ …) liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong quá trình giao dịch, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo…
Cạnh đó, NTSHNLS không được thay mặt ngoài tố tụng cho công dân khác, nghĩa là không được làm thay mặt cho khách hàng để giải quyết các công việc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi người đó tập sự với tư cách các nhân làm việc theo hợp đồng lao động. NTSHNLS cũng không được làm mọi thứ dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính (thí dụ dẫn dắt, đưa khách hàng đến các cơ quan thẩm quyền để giải quyết công việc theo yêu cầu); giúp đỡ, tư vấn hay thay mặt cho khách hàng trong quá trình khiếu tố; biên dịch các loại giấy tờ hay phiên dịch các cuộc tiếp xúc, xác nhận giấy tờ và giúp đỡ khách hàng thực hiện các công việc khác…
Như vậy là NTSHNLS bị cấm tiệt, cấm nhận làm tất cả mọi hoạt động thuộc phạm vi nghề nghiệp của luật sư, thậm chí không được làm những việc mà mọi công dân bình thường đều được làm (như thay mặt theo uỷ quyền, thay thế các đương sự tham gia tố tụng tại phiên toà; giúp thảo đơn, nộp đơn; dịch tài liệu; thay mặt theo uỷ quyền để tham gia khiếu nại, tố cáo; giúp giải thích, hướng dẫn luật lệ cho người khác)… Những việc này, mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự (không bị bệnh tâm thần, không còn khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình) đều được làm nhưng NTSHNLS không được làm. Vì vậy, có người cho rằng về tư cách pháp lý, NTSHNLS cũng được liệt vào như loại người … mất năng lực hành vi dân sự (?!).
… Làm sao biết bơi?
Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy lúc đầu (theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987), các luật sư tập sự đều được bào chữa (ở mọi cấp toà) và làm mọi việc giúp đỡ pháp lý cho khách hàng như luật sư thực thụ. Sau đó (theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001), luật sư tập sự vẫn có quyền và nghĩa vụ như luật sư, trừ một số việc “quan trọng” chưa được làm như đứng ra thành lập văn phòng luật sư, ký văn bản tư vấn pháp luật, tham gia các vụ án từ toà án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, toà án quân sự quân khu trở lên…
Nay thì luật mới cấm hết. Trong suốt cả 18 tháng tập sự, NTSHNLS chỉ được “giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp” mà không được trực tiếp làm dịch vụ pháp lý gì cho khách hàng cả. Chỉ được phụ trợ giúp việc cho luật sư hướng dẫn, liệu có phải đó là hay khi mà so với các ngành nghề khác, dù có thể có nguy hiểm thế mấy cho xã hội đi nữa, hễ đã “tập sự” là phải được thực tập, làm thử cho quen với mọi công việc của nghề? Lúc tập sự không được tập làm với sự giám sát, kèm cặp của “ông thầy” thì khi mãn hạn tập sự làm sao “tự bơi” một mình?!
Lâu nay các giám khảo sát hạch luật sư tập sự để cho làm luật sư thực thụ, họ thường hỏi người tập sự đã ra toà được mấy lần, cãi cọ ra sao, tư vấn cho khách hàng như thế nào… Tương lai đây có lẽ các giám khảo “kiểm tra tay nghề” phải đổi lại cách sát hạch cho phù hợp với luật mới: Bạn đã được “dòm” mấy phiên toà có luật sư cãi? Bạn đã nghe được luật sư tư vấn cho khách hàng mấy bận. Bạn có biết viết đơn giùm người khác là đã vi phạm pháp luật không? Không được tư vấn mà lại biết đủ chuyện của người ta cũng có thể là xâm phạm “bí mật đời tư, bí mật thông tin” của nghề?...
Những điều đó và hậu quả của nó đang là mối ưu tư của ngiều người, nhất là những NTSHNLS! Vấn đề này cần được cơ quan thẩm quyền giải thích rõ hơn khi mà Nghị định 28 ngày 26-2-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Luật sư cũng như Thông tư 02 ngày 25-4-2007 của Bộ Tư pháp đều chưa hề “đả động” đến





Tiêu chuẩn của luật sư được quy định tại Điều 9 Dự thảo Luật Luật sư: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Điều 10 Dự thảo Luật Luật sư quy định điều kiện để hành nghề luật sư là phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư (Các tác giả viết bài này vào thời điểm Luật Luật sư năm 2006 đang trong quá trình xây dựng – Civillawinfor).
Tiêu chuẩn luật sư theo Điều 10 Luật Luật sư năm 2006:
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. (Civillawinfor trích dẫn)
Như vậy đào tạo luật sư ở Việt Nam gồm có 3 giai đoạn hay nói cách khác ở Việt Nam muốn trở thành luật sư phải trải qua 3 giai đoạn đào tạo: đào tạo ở trường đại học để có bằng cử nhân luật, đào tạo nghề luật sư để được cấp Chứng chỉ đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư và đào tạo trong thời gian tập sự hành nghề luật sư.
Bài viết này đề cập tới việc đào tạo luật sư các nước thay mặt cho dòng họ pháp luật Common Law (Anh, Mỹ) và Civil Law (Pháp, Đức) và cũng là những nước có truyền thống, thành tựu nhất định trong đào tạo luật sư để rút ra những kinh nghiệm nhằm hoàn thiện công tác đào tạo luật sư ở Việt Nam.


1. Đào tạo luật sư ở Pháp
Điều kiện bắt buộc để hành nghề luật sư ở Pháp là phải là thành viên của Đoàn luật sư địa phương (barreau) với điều kiện gia nhập là phải có bằng Maitrise về luật[1], phải có Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư (Certificat d’aptitude à la profession d’advocat), sau đó làm luật sư thực tập trong 2 năm.
Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư do Trung tâm đào tạo luật sư cấp. Việc giảng dạy ở Trung tâm do các luật sư, thẩm phán có uy tín và giáo sư đầu ngành đảm nhiệm.
Để được vào học tại Trung tâm, các học viên phải qua kỳ thi tuyển. Đây là kỳ thi tuyển rất khó, thường tỷ lệ đỗ khoảng 30%. Việc miễn thi đầu vào khoá học này dành cho một số đối tượng như người có bằng tiến sĩ luật, các luật gia làm việc trong các hãng luật lớn, các thẩm phán, giảng viên đại học luật và các công chứng viên. Trung tâm sẽ đào tạo cả về lý thuyết và thực hành cho học viên trong một khoá học kéo dài 18 tháng. Khoá học này được chia làm 3 giai đoạn: 6 tháng đầu các học viên tham gia khoá học tại Trung tâm, 6 tháng tiếp theo các học viên sẽ được gửi đi học tại một trường đại học, 6 tháng cuối các học viên thực tập tại văn phòng luật sư.
Ở Pháp đã thực hiện một cuộc cải cách lớn đối với việc đào tạo và hành nghề luật sư vào tháng 12/2004, mục đích của cuộc cải cách này là nâng cao tính thực tiễn, giảm bớt số lượng giờ học lý thuyết trong khoá đào tạo luật sư. Đặc biệt kỳ thi tuyển đầu vào ở các khoá học này trở nên vô cùng khó khăn với các đề thi rất khó. Cuối khoá học, học viên phải trải qua kỳ thi về khả năng hành nghề luật sư và nếu vượt qua kỳ thi này, các học viên sẽ được cấp Chứng chỉ về khả năng hành nghề Luật sư.
Người có Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư được ghi tên vào danh sách luật sư tập sự của một Đoàn luật sư (Điều 12 Luật số 71-1130 ngày 31/12/1971). Trong thời gian 6 tháng đầu, luật sư vẫn phải tiếp tục học tập tại Trung tâm đào tạo luật sư sau đó luật sư tập sự tại Văn phòng luật sư hay Toà án khoảng 1 năm. 6 tháng còn lại, luật sư có thể tập sự tại Văn phòng công chứng, Văn phòng kiểm toán hay Ban pháp luật của doanh nghiệp. Kết thúc 2 năm tập sự, luật sư tập sự được Trung tâm đào tạo luật sư chứng nhận hoàn tất chương trình tập sự và có thể trở thành luật sư chính thức (Điều 79 Sắc lệnh ngày 31/12/1991)[2].
2. Đào tạo luật sư ở Anh
Ở Anh, để trở thành luật sư không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật[3].
Việc đào tạo luật sư ở Anh không chú trọng tính bài bản mà thiên về thực tiễn, các luật sư Anh được đào tạo chủ yếu về thủ tục tố tụng và thu thập, xác minh chứng cứ bởi theo pháp luật Anh, về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình tố tụng là trách nhiệm của các bên (thông qua luật sư của mình), vai trò của thẩm phán trong xét xử chỉ là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng[4].
Nghề luật sư ở Anh được xây dựng trên mô hình tổ chức tư pháp và tố tụng của Anh được hình thành từ thế kỷ 12-13. Luật sư Anh gồm hai loại: luật sư bào chữa (barristors) và luật sư tư vấn (solicitors) – đây là điểm khác biệt xuất phát từ đặc thù của hệ thống án lệ.
Các luật sư Anh chịu sự quản lý của các tổ chức luật sư – Inns of Court và Law Society.
Inns of Court hình thành từ đầu thế kỷ 14, có thư viện luật và là nơi mở các khoá đào tạo cho những người muốn trở thành luật sư biện hộ. Thời Trung cổ, các sinh viên luật đến London để học và thực tập bên cạnh các thẩm phán tại Toà án cấp cao đã ăn, ngủ tại Inns of Court – thực ra là khu ăn ở của các luật gia trong Toà án. Mỗi Inn of Court có một nhà thờ, một thư viện và một đại sảnh – nơi mọi người ăn uống khi đến bữa, đồng thời cũng là nơi hội họp và giảng dạy về thực tiễn[5].
Người muốn trở thành luật sư biện hộ phải là một khoá sinh của Inn of Court để được đào tạo và phải thi đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư biện hộ. Thời gian đào tạo ở các Inn of Court được đo bằng các “kỳ ăn trưa” thường kéo dài khoảng 3 tuần tuỳ Inn of Court quy định. Thông thường mỗi năm có khoảng 4 “kỳ ăn trưa” để đào tạo các khoá sinh. Trong mỗi “kỳ ăn trưa”, khoá sinh phải ăn trưa ít nhất ba lần trong đại sảnh của Inn of Court. Để trở thành luật sư biện hộ, khoá sinh phải trả qua ít nhất tám “kỳ ăn trưa”. Thời xưa, các bữa ăn trưa được coi là để giảm bớt khoảng cách giữa các luật sư biện hộ chính thức và các khóa sinh, ngày nay ở Anh việc ăn trưa cùng để đào tạo phần nhiều mang tính chất nghi lễ.
Việc công nhận luật sư biện hộ do Hội đồng của Inn of Court (Bencher of Inn) thực hiện sau khi khoá sinh đã thi đỗ kỳ thi lý thuyết và thực hành và trải qua thời gian thực tập một năm[6].
Hội Luật sư (Law Society) được thành lập từ thế kỷ 18 là tổ chức tập hợp các luật sư tư vấn. Hội đã ban hành Bộ luật ứng xử (Code of Conduct) bao gồm các quy tắc điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp của các luật sư tư vấn. Để trở thành luật sư tư vấn chỉ cần học 9 tháng tại Trường luật của Hội Luật sư (với các môn học gắn với thực tế như lập hợp đồng bất động sản, luật thuế, luật thừa kế, luật thương mại, luật công ty…), thi đỗ kỳ thi chuyên môn do Hội Luật sư tổ chức và trải qua hai năm tập sự ở một trong những văn phòng luật sư tư vấn với tư cách nhân viên (article clek).
3. Đào tạo luật sư ở Mỹ
Mỹ được coi là nước có nghề luật sư phát triển nhất thế giới. Ở Mỹ có khoảng 1 triệu luật sư (trung bình 220 người dân có một luật sư), việc đào tạo luật sư ở Mỹ có nhiều điểm đáng chú ý.
Nghề luật sư ở Mỹ ra đời muộn hơn so với nghề luật sư ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức. Nước Mỹ với thể chế liên bang, tính đa dạng của các bang thành viên và sắc tộc đòi hỏi phải có mô hình tư pháp riêng và mô hình nghề luật thống nhất. Mô hình này ra đời trong bối cảnh môi trường pháp lý và xã hội đặc thù, ở đó nhà nước giảm thiểu sự can thiệp vào đời sống xã hội, trong tố tụng áp dụng nguyên tắc đối kháng, tại phiên toà thẩm phán và bồi thẩm đoàn chỉ căn cứ vào những gì họ nghe thấy tại phiên toà để đưa ra phán quyết của mình. Trong phòng xử án luật sư không bảo vệ công lý mà bảo vệ cho lý lẽ của mình. Người Mỹ có ý thức rằng chỉ cần luật sư giỏi là họ có cơ may thắng kiện và trên thực tế điều đó không phải là không có cơ sở.
Các luật sư Mỹ, dù có khác biệt về chuyên môn, danh tính và thu nhập nhưng đều làm một nghề có tính thống nhất và cùng có bằng cấp, học vấn và được đào tạo cơ bản chính thức như nhau. Hầu hết các bang ở Mỹ đều đòi hỏi người muốn trở thành luật sư phải hoàn thành 4 năm cao đẳng sau đó là 3 năm ở một trong 185 trường luật được Hội Luật gia Hoa Kỳ công nhận, cuối cùng phải đỗ kỳ thi công nhận luật sư. Kỳ thi công nhận luật sư của bang thường kéo dài từ hai đến ba ngày và gồm ít nhất hai phần: phần thi khách quan (Thi Luật sư Liên bang của Uỷ ban Quốc gia Giám khảo Luật sư (NCBE) kiểm tra kiến thức cơ bản về các vấn đề nền tảng như hợp đồng, tài sản, vi phạm dân sự, luật tố tụng và luật hiến pháp; phần thi viết bài luận về các chủ đề. Việc sử dụng Bài kiểm tra trắc nghiệm Multistate Perfomance Test (kiểm tra kỹ năng luật sư bằng cách đưa ra tình huống thực tế và những nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tình huống để yêu cầu thí sinh đưa ra văn kiện pháp lý (hợp đồng, lời biện hộ…) cũng được sử dụng phổ biến.
Có tới 50-80% thí sinh đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư này nên việc được nhận vào học ở trường luật là điều kiện mấu chốt để được chấp nhận làm luật sư ở Mỹ. Việc tuyển sinh vào trường luật có tính chọn lọc cao và được quyết định bởi kết quả học ở bậc cao đẳng và kết quả trong kỳ thi tuyển sinh LSAT. Ví dụ: Trường luật Yale có 5000 thí sinh nộp đơn xin học trên tổng số 170 chỉ tiêu tuyển sinh. Chi phí để vào học ở trường luật cũng là rào cản đáng phải kể đến: sinh viên ở các trường luật tư phải đóng khoảng 30.000 USD mỗi năm, sinh viên ở các trường luật công cũng phải đóng khoảng 15.000 – 20.000 USD mỗi năm[7].
Ở các trường luật đều dạy giống nhau trong năm đầu tiên với các khóa học về tài sản, hợp đồng, các vụ án dân sự, trình tự thủ tục, luật hình sự và tất cả được dạy chủ yếu theo phương pháp giảng tích cực (đối thoại với sinh viên) và phương pháp tình huống (case study). Theo yêu cầu của giáo sư, sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, bao gồm: các bản án (case method), các văn bản pháp luật, học thuyết pháp lý liên quan, một số bài viết về kinh tế và xã hội học (modified case method). Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp Socrate, theo đó sinh viên làm việc theo nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học. Giáo sư sẽ đặt câu hỏi cho các học viên, thay đổi tình tiết các vụ việc…Đối với sinh viên từ năm thứ ba trong trường luật có thể áp dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical method), theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và thay mặt cho khách hàng thực sự trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp dưới sự theo dõi của luật sư – đồng thời là giáo sư. Các trường luật hướng tới việc đào tạo những con người có khả năng tư duy, có trình độ lý luận, có năng lực làm việc độc lập. Sinh viên phải nỗ lực trong nghiên cứu, tìm tòi, phân tích các văn bản luật cũng như tình tiết vụ việc cụ thể để có thể đưa ra các quan điểm, ý kiến và cách lập luận thuyết phục nhất[8]. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề trong chương trình trường luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn đã có thể làm việc được.
Giáo dục pháp luật ở Mỹ có truyền thống đào tạo sinh viên luật suy nghĩ và hành động như những luật sư ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hầu hết các trường luật ở Mỹ đều kết luận rằng việc kết hợp các giảng viên chính thức (đa số đều có kinh nghiệm trong nghề luật trước khi tham gia giảng dạy luật) và những thẩm phán có kinh nghiệm tham gia giảng dạy là phù hợp nhất để đào tạo nghề cho các luật sư tương lai.
Trong đào tạo luật sư ở Mỹ phải kể đến vai trò của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA) – tổ chức quốc gia về ngành luật ở Mỹ. ABA đã xác định rằng cần xây dựng một quy trình quốc gia để đảm bảo chất lượng đào tạo luật sư. Năm 1921 ABA đã đưa ra bản quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của giáo dục pháp luật và danh sách các trường luật được công nhận là đáp ứng được tiêu chuẩn này[9].
Năm 1992, Ban Giáo dục Pháp luật và Công nhận Luật sư của Hội Luật gia Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo MacCrate về tình hình giáo dục và công tác đào tạo. Báo cáo được công nhận trong toàn nước Mỹ như văn bản quan trọng trong phát triển đội ngũ luật sư. Báo cáo MacCrate coi những kỹ năng và giá trị sau đây có ý nghĩa vô cùng quan trọng để có thể hành nghề luật sư một cách thành thạo:
– Các kỹ năng: Giải quyết vấn đề; phân tích và suy luận pháp lý; nghiên cứu pháp luật; điều tra thực tế; giao tiếp; tư vấn; thương lượng; kiến thức về tranh tụng và các thủ tục giải quyết tranh chấp; tổ chức và quản lý công việc pháp lý; nhận biết và giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức.
– Các giá trị: Đại diện theo đúng thẩm quyền; đấu tranh thúc đẩy công lý, công bằng và đạo đức; tự phát triển về chuyên môn.
Báo cáo MacCrate thừa nhận rằng sẽ không hợp lý khi trông đợi các trường luật gánh vác nhiệm vụ biến các sinh viên dù rất có năng lực thành những luật sư hoàn hảo được cấp giấy phép giải quyết các vấn đề pháp luật. Ba năm học tại trường luật mới chỉ tạo dựng được nền tảng. Báo cáo nhấn mạnh: “việc phát triển các kỹ năng và giá trị của người luật sư có khả năng và trách nhiệm là một quá trình liên tục, nó bắt đầu từ trước khi vào học tại trường luật, đạt tới mức định hình rõ nét và chuyên sâu trong quá trình học tại trường luật và sẽ tiếp tục trong suốt quá trình hành nghề luật sư.
Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên trong suốt quá trình hành nghề luật sư có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giảng dạy những kỹ năng và giá trị mà người luật sư cần có để đạt được và duy trì những chuẩn mực nghề nghiệp. Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên cho luật sư có nhiều hình thức khác nhau, được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau và do nhiều tổ chức thực hiện việc giáo dục, quản lý.
Đào tạo luật sư tại các công ty luật: Các công ty luật lớn ở Mỹ thường tiến hành giáo dục thường xuyên cho luật sư một cách chính thức. Chương trình đào tạo có thể khác nhau nhưng việc đào tạo luật sư tại nơi làm việc sẽ tạo điều kiện cho nội dung giảng dạy phù hợp với yêu cầu của chính công ty. Hình thức đào tạo tại nơi làm việc – đặc biệt cho luật sư mới còn gồm các hội thảo về soạn thảo văn bản pháp lý, kỹ năng đàm phán hợp đồng, kỹ năng kiện tụng…Các công ty luật có quy mô nhỏ không tổ chức các chương trình đào tạo nội bộ chính thức cho luật sư mới mà thường cập nhật các kỹ năng hành nghề luật sư ngay trong quá trình làm việc.
Đào tạo luật sư tại các tổ chức đào tạo: Có rất nhiều tổ chức đào tạo thường xuyên như Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Hội Luật gia Hoa kỳ, Uỷ ban Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Viện Luật Hoa Kỳ, Hội Luật gia Hoa Kỳ, các đoàn luật sư của bang và địa phương, các trường luật…Thông qua Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên, Hội Luật gia Hoa kỳ tiến hành đào tạo luật sư dưới một loạt hình thức như các cuộc hội thảo từ 1-3 ngày nhằm cập nhật hàng năm về các lĩnh vực pháp luật thực tế, các hội nghị qua truyền hình, qua mạng Internet…Diễn giả trong các hội thảo, hội nghị này là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực pháp luật cụ thể được trình bày. Một ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức đào tạo qua thảo luận trực tiếp này là khả năng tương tác hay thiết lập mạng lưới quan hệ giữa các luật sư vốn hoạt động trong cùng lĩnh vực hay trong các lĩnh vực có liên quan[10].
Mỗi bang trong số 50 bang của Mỹ đều quy định luật sư phải có giấy phép mới được hành nghề tại bang đó và mỗi bang cũng đặt ra các yêu cầu của riêng mình về việc duy trì hiệu lực của giấy phép hành nghề luật. 40 trong số 50 bang của Mỹ quy định luật sư phải thường xuyên tham gia các khoá học giáo dục pháp luật thường xuyên. Hội luật gia Hoa Kỳ đã thông qua Quy định mẫu về giáo dục pháp luật thường xuyên năm 1986 làm chuẩn mực cho tổ chức đào tạo cho các luật sư. Trên cơ sở đó, các bang đã thông qua quy định của riêng mình với số giờ phải học tối thiểu của luật sư từ 12 đến 15 giờ trong một năm. Ngoài ra còn có những quy định riêng đối với luật sư mới vào nghề: những luật sư hành nghề chưa tới 3 năm có thể phải qua một số khoá học căn bản về kỹ năng ngay sau khi gia nhập đoàn luật sư. Luật sư ở mọi trình độ đều bắt buộc phải tham gia một số giờ đào tạo nhất định về đạo đức nghề nghiệp, về chuyên môn luật sư…
4. Đào tạo luật sư ở Đức
Ở Đức không tồn tại mô hình đạo tạo riêng cho từng nghề luật như nghề thẩm phán, nghề luật sư… mà chỉ có một quy trình đào tạo chung cho mọi nghề luật. Hiện nay ở Đức, các sinh viên luật sau khi tốt nghiệp có rất ít cơ hội được tuyển vào làm thẩm phán, do ngành toà án ít có nhu cầu bổ sung. Đồng thời, biên chế trong các cơ quan công tố và cơ quan hành chính nhà nước luôn có giới hạn khiến đa số sinh viên luật ra trường phải chọn nghề luật sư để kiếm sống. Tình trạng này khiến chúng ta có thể có nhận xét rằng đào tạo luật ở Đức thực chất là đào tạo các luật sư.
Đức là nước có truyền thống đào tạo nghề luật nói chung và đào tạo luật sư nói riêng khá lâu đời. Từ thế kỷ XIV, các trường đại học tổng hợp đầu tiên của Đức, trong đó có khoa luật đã được thành lập – đến nay, các khoa luật này vẫn là những cơ sở đào tạo luật chính thức của Đức.
Ở Đức, toàn bộ thời gian đào tạo luật được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất – đào tạo pháp luật ít nhất là ba năm rưỡi tại trường đại học. Giai đoạn thứ hai – đào tạo thực hành nghề luật kéo dài ít nhất là hai năm.
Bất kỳ ai, nếu muốn trở thành luật sư, công chứng viên, thẩm phán, công tố viên… đều phải thi tuyển hay được xét tuyển vào học tại các trường Đại học luật hay khoa luật tại các trường đại học tổng hợp (hiện nay, trên toàn nước Đức có khoảng 50 khoa luật trực thuộc các trường đại học nằm rải rác ở 16 bang).
Trong giai đoạn thứ nhất, các sinh viên luật sẽ phải học trong một khoảng thời gian ít nhất là ba năm rưỡi với các môn học mang tính cơ sở về khoa học luật như: lịch sử các học thuyết pháp luật, lịch sử pháp luật, triết học, xã hội học pháp luật và các môn luật mang tính chất bắt buộc như: luật hiến pháp, luật dân sự, luật hình sự, luật hành chính, luật tố tụng dân sự…
Bên cạnh các môn học mang tính bắt buộc thì sinh viên luật ở Đức cũng có các môn học tự chọn, đó có thể là môn luật về thuế, luật về cộng đồng châu Âu, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ… Việc thiết kế các môn học bắt buộc và tự chọn tùy thuộc vào chương trình của mỗi trường.
Về phương pháp đào tạo luật ở Đức thì hiện nay đang xuất hiện hai quan điểm khác nhau, đó là: quan điểm cải cách và quan điểm bảo thủ. Nhóm quan điểm cải cách cho rằng, nước Đức cũng như nhiều nước trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa cần tiếp nhận phương pháp thực tiễn trong đào tạo luật của các nước Anh – Mỹ. Nghĩa là, cần giảm bớt tính hàn lâm và phải đưa các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy các môn luật. Nhóm quan điểm bảo thủ lại cho rằng, chế độ đào tạo pháp luật của nước Đức theo truyền thống vẫn rất hiệu quả. Bởi việc đào tạo pháp luật trong giai đoạn thứ nhất gắn với việc đào tạo kiến thức pháp luật cơ bản, tổng hợp, với mục đích cung cấp các kiến thức toàn diện cho sinh viên. Còn các kiến thức chuyên sâu và kỹ năng thực hành mang tính chất nghề luật là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn hai. Tuy nhiên, các kết quả khảo sát gần đây cho thấy, nhiều khoa luật trên lãnh thổ của Đức đã chú trọng đến việc cân đối giữa hàm lượng lý thuyết và thực tiễn pháp luật trong cơ cấu các môn học. Điều này được minh chứng bằng việc ngày càng có nhiều luật sư và thẩm phán có uy tín được các khoa luật mời đến giảng bài cho sinh viên. Bên cạnh đó, trong hệ thống câu hỏi của các kỳ thi tốt nghiệp giai đoạn thứ nhất, tỷ lệ các câu hỏi về thực tiễn pháp luật ngày càng tăng.
Nếu nhìn vào quy trình tổ chức kỳ thi tốt nghiệp và việc đánh giá kết quả học tập qua các kỳ thi, đặc biệt là thi tốt nghiệp cho giai đoạn thứ nhất thì có thể khẳng định rằng, việc đào tạo pháp luật ở Đức có chất lượng rất cao. Pháp luật của Đức quy định: Bộ Tư pháp của mỗi bang có trách nhiệm giám sát, quản lý, đánh giá kỳ thi này, thậm chí cả việc ra câu hỏi thi. Các câu hỏi thi thường dài và phức tạp, chẳng hạn như, kỳ thi tốt nghiệp giai đoạn thứ nhất ở bang Bavarian có tới tám câu hỏi, sinh viên phải hoàn thành bài thi trong thời gian năm tiếng. Đây thực sự là một áp lực đối với bất cứ sinh viên luật nào. Theo tài liệu thống kê được công bố năm 2003, thì chỉ có khoảng 65% sinh viên đạt yêu cầu, còn 35% sinh viên phải thi lại trong các lần thi tiếp theo.
Sau khi đã vượt qua kỳ thi của giai đoạn thứ nhất, các sinh viên luật sẽ được tiếp tục theo học giai đoạn thứ hai – giai đoạn đào tạo nghề luật, nghĩa là, đào tạo các kiến thức pháp luật thực hành. Việc đào tạo nghề luật của giai đoạn thứ hai kéo dài hai năm và cũng được kết thúc bằng một kỳ thi. Nếu không vượt qua kỳ thi này thì sinh viên luật sẽ không nhận được học vị cử nhân. Giai đoạn đào tạo kiến thức và kỹ năng của các nghề luật cụ thể là một phần không thể thiếu trong đào tạo luật ở bậc đại học[11]. Pháp luật của Đức quy định một quy trình chung cho đào tạo mọi nghề luật, nghĩa là, các sinh viên luật, sau khi tốt nghiệp đại học có đủ tư cách hoạt động ở mọi nghề luật. Thông thường, thầy giáo giảng trong các giờ học này là những thẩm phán hay các chuyên viên pháp lý có kinh nghiệm. Những sinh viên luật dù đã định hướng nghề nghiệp như: nghề luật sư, thẩm phán… thì vẫn phải tham gia tập sự ở tòa án cấp quận hay tòa án cấp cao trong thời gian sáu tháng; ở cơ quan công tố ba tháng; ở hội đồng địa phương bốn tháng và bốn tháng tập sự cùng với một luật sư thực thụ. Như vậy, trong thời gian thực tập, sinh viên luật sẽ làm quen với các vụ việc thuộc nhiều lĩnh vực, từ dân sự, hình sự đến hành chính… Mức độ tiếp cận với thực tiễn nghề luật sẽ phụ thuộc vào số lượng công việc nơi thực tập và khả năng học tập của sinh viên. Khi đã hoàn thành nhiệm vụ tập sự ở các cơ quan nói trên, trong thời gian bảy tháng còn lại, họ có thể tùy chọn tập sự lại ở một trong các vị trí nói trên, nhằm tăng thêm khả năng chuyên sâu nghề nghiệp. Trong bảy tháng này, những sinh viên có định hướng làm nghề thẩm phán thường sẽ chọn tòa án là nơi tăng cường thực tiễn. Còn những sinh viên có tham vọng theo nghề luật sư, thì địa chỉ mà họ thực tập là các công ty luật hay các đoàn luật sư. Giai đoạn thực hành nghề luật của sinh viên cũng được kết thúc bằng một kỳ thi tốt nghiệp. Kỳ thi này còn được coi là quan trọng và khó hơn kỳ thi tốt nghiệp trong giai đoạn thứ nhất.
Tất cả những thí sinh đã qua kỳ thi thứ hai đều có thể đăng ký làm luật sư ở cơ quan tư pháp địa phương và được cơ quan này cấp Giấy phép hành nghề luật sư một cách đương nhiên (chỉ trừ một số trường hợp do Quy chế luật sư quy định)[12]
Điều kiện để trở thành luật sư ở Đức và ở Pháp về cơ bản là giống nhau, tuy nhiên chương trình đào tạo luật sư ở Đức dài hơn: ở Pháp có thể trở thành luật sư ở độ tuổi 22-23, ở Đức người ta phải cố gắng lắm mới có thể trở thành luật sư trước tuổi 30.
Theo con số thống kê năm 2001, toàn Liên bang Đức có khoảng 110.367 luật sư được công nhận tư cách trong các đoàn luật sư. Đến tháng 1/2003, số luật sư được công nhận tư cách trong các đoàn luật sư đã lên tới 121.420 người, tăng khoảng 4,4% so với 12 tháng trước đó. Nghề luật sư ở Đức cũng như ở nhiều nước trên thế giới, tính cạnh tranh ngày càng cao, do đó hình thành xu hướng ngày càng có nhiều luật sư hoạt động chuyên sâu trong một lĩnh vực pháp luật như: luật hôn nhân gia đình, luật thuế, luật hình sự, luật hành chính, luật sở hữu trí tuệ…[13]
5. Đào tạo luật sư ở Nhật Bản[14]
1.1. Nhật Bản là nước áp dụng chế độ tam quyền phân lập, gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội gồm Thượng nghị viện và hạ nghị viện; quyền hành pháp thuộc nội các (chính phủ) và quyền tư pháp thuộc toà án.
Ba quyền này can thiệp và tác động lẫn nhau nhằm giữ cân bằng, tránh sự lạm quyền giữa ba hệ thống cơ quan này.
Quyền Tư pháp ở Nhật Bản thuộc về Toà án tối cao và các toà án địa phương. Theo khoản 1 điều 76 Hiến pháp Nhật bản, toà án địa phương bao gồm tám toà án khu vực, 50 toà án địa phương, 50 toà án gia đình, 438 toà giản lược.
Ngoài ra, có hai tổ chức quan trọng khác, mặc dù không thuộc hệ thống toà án, nhưng cũng được coi là có quyền tư pháp là viện kiểm sát và hội luật sư.
Vì vậy, các chức danh tư pháp ở Nhật bản là thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Bởi lẽ đó, ở Nhật bản có câu “Nâng đỡ chế độ tư pháp là ba chức danh: thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư”. Đây cũng có thể coi là quan niệm riêng của Nhật bản về các chức danh tư pháp.
1.2. Để trở thành người có chức danh tư pháp ở Nhật bản phải qua khoá đào tạo tại Học Viện Tư pháp nhật bản.
Ở nhật bản, việc đào tạo tư pháp được bắt đầu từ năm 1886. Sau khi chế độ phong kiến cuối cùng – Chế độ EDO- sụp đổ năm 1867, nước Nhật bước vào thời kỳ Minh Trị cách tân. Nước Nhật mở rộng cánh cửa ra thế giới, đặc biệt là các nước Âu- Mỹ. Nhiều thành tựu của thời kỳ này vẫn còn giữ được giá trị cho đến bây giờ, trong đó có hệ thống pháp luật và chế độ đào tạo chức danh tư pháp.
Trong thời kỳ đầu, từ năm 1886 đến 1922, việc đào tạo thẩm phán và kiểm sát viên được đào tạo theo chương trình riêng, đào tạo luật sư được đào tạo theo chương trình riêng. Việc thi tuyển những chức danh này cũng được tổ chức theo những chương trình riêng.
Từ năm 1923 đến năm 1946, Nhật Bản bắt đầu tổ chức kỳ thi chung cho các chức danh tư pháp. Tuy nhiên, chỉ có kỳ thi là được tổ chức chung, còn sau đó, các thẩm phán và kiểm sát viên tương lai được đào tạo chương trình riêng, học viên luật sư được đào tạo chương trình riêng.
Từ năm 1947 đến nay, các chức danh này không chỉ dự kỳ thi tư pháp quốc gia mà còn được đào tạo một chương trình chung giống nhau. Đây là kết quả quá trình nước Nhật nhận thức rằng để nâng cao chất lượng tư pháp, phải nâng cao một cách đồng đều chất lượng của tất cả các chức danh tư pháp mà không phải chỉ là thẩm phán hay kiểm sát viên.
1.3. Kỳ thi tư pháp quốc gia được tổ chức mỗi năm một lần, do Uỷ ban quản lý kỳ thi tư pháp của Bộ Tư pháp thực hiện. Đây cũng là một điểm đặc sắc trong việc tổ chức đào tạo các chức danh tư pháp ở Nhật Bản. Bởi lẽ Học Viện tư pháp thuộc Toà án tối cao, nhưng tổ chức thi tuyển lại do Bộ tư pháp thực hiện (theo chế độ tam quyền phân lập, Tòa án là cơ quan tư pháp, trong khi đó, Bộ Tư pháp lại thuộc cơ quan hành pháp). Những người Nhật hiện đại giải thích: quy định này có lẽ nhằm tạo một cơ chế kiểm soát chất lượng giữa các cơ quan khác nhau.
Để có thể tham gia kỳ thi tư pháp quốc gia, người dự thi cần nộp đơn. Đây là điều kiện duy nhất của người dự tuyển. Không có điều kiện nào khác, thậm chí không giới hạn về độ tuổi cũng như bằng cấp chuyên môn. Lịch sử thi tuyển các chức danh tư pháp cũng đã ghi nhận một thí sinh 12 tuổi thi đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia. Thậm chí, người có tiền án, tiền sự cũng có quyền tham gia kỳ thi tư pháp, dĩ nhiên là phải có mặt để dự thi. Bất kể ai cho rằng mình có thể thi đậu kỳ thi tư pháp quốc gia đều có quyền dự thi.
Việc không hạn chế điều kiện dự thi kỳ thi tư pháp quốc gia xuất phát từ quan điểm: nước Nhật cần người tài thực sự để có thể thực hiện tốt quyền tư pháp. Mà người tài thì có thể do được đào tạo, học hành, nhưng có thể là bằng con đường tự học, tự trưởng thành của người đó.
Thực tế, kỳ thi tư pháp quốc gia là một kỳ thi quá khó khăn (nhiều học viên tư pháp phải dự tới hơn 10 kỳ thi tư pháp quốc gia mới trúng tuyển), nên phần lớn thí sinh dự tuyển (nếu không nói là tất cả), đều có bằng cử nhân (có thể là cử nhân luật hay cử nhân một chuyên ngành khác). Người không có bằng cử nhân tham gia kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ chiếm một số lượng rất ít (vài người trong một năm).
Dẫu sao, việc quy định điều kiện dự thi tư pháp quốc gia như hiện tại đã làm cho việc học đại học luật ở Nhật bản, xét về lý thuyết gần như chẳng cần thiết và không có ý nghĩa. Thực tế, ở Nhật bản đã có rất nhiều những cơ sở luyện thi cho kỳ thi tư pháp. dĩ nhiên, ở đây, người ta chỉ chú trọng ôn luyện kỹ thuật thi cử, chứ không dạy luật.
Hiện tại, người Nhật cũng nhận thấy sự bất hợp lý và thiếu khoa học trong cơ chế thi tuyển tư pháp. Mặt khác, để chương trình đào tạo Đại học luật và đào tạo các chứ danh tư pháp gắn kết với nhau, bắt đầu từ 2006, nước Nhật bắt đầu áp dụng điều kiện dự thi bắt buộc người dự thi phải có bằng cao học luật. Để có bằng cao học luật (thời gian học 2 năm), cần có bằng đại học luật hay một bằng đại học khác. Thực hiện kế hoạch cải cách này, bắt đầu từ tháng 4 năm 2004, nước Nhật sẽ có những Law School (trường luật) đầu tiên đào tạo cao học luật. Hai năm sau, năm 2006, nước Nhật sẽ có những Master luật đầu tiên dự kỳ thi tư pháp quốc gia. Bên cạnh đó, chế độ dự thi cũ vẫn tiếp tục được duy trì trong khoảng 5 năm, cho đến khi điều kiện dự thi mới có thể được áp dụng triệt để.
1.4. Kỳ thi tư pháp quốc gia có nhiều vòng thi, diễn ra gần như hết năm, do vậy để có khoá học viên tư pháp, kỳ thi tư pháp phải được tổ chức từ năm trước.
Vòng thi sơ khảo kiểm tra kiến thức pháp luật cơ bản là vòng thi đầu tiên dành cho những người không có bằng cử nhân. Hàng năm, kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ có một vài thí sinh là phải dự tuyển vòng sơ khảo.
Vòng thi chính bao gồm:
1.4.1. Thi trắc nghiệm: có ba môn thi là Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hình sự. Mỗi bài thi phải làm trong khoảng 3h đồng hồ. Kỳ thi thường được tổ chức vào ngày chủ nhật và thứ hai của tháng 5 trong năm.
Tỷ lệ thí sinh trượt vòng thi trắc nghiệm là rất lớn:
năm 2002 có 41.500 thí sinh đỗ 6.500 thí sinh
năm 2003 có 45.342 thí sinh đỗ 6.986 thí sinh
1.4.2. Thi viết bài luận: vòng này có năm môn thi gồm Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật thương mại, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hình sự. Mỗi môn phải viết hai bài.
Kỳ thi viết được tổ chức vào trung tuần tháng 7 hàng năm, thường trong các ngày từ ngày 17 đến ngày 20.
Tỷ lệ thí sinh qua vòng thi này như sau:
năm 2002 có 6.500 thí sinh đỗ 1.244 thí sinh
năm 2003 có 6.986 thí sinh đỗ 1.201 thí sinh
1.4.3. Thi vấn đáp là kỳ thi cuối cùng. Các môn thi vấn đáp cũng gồm 5 môn thi giống như kỳ thi viết. Mỗi môn có hai giám khảo.
Do các vòng thi đầu rất khó khăn, nên những thí sinh vào đến vòng thi vấn đáp đều là những thí sinh rất xuất sắc. Tỷ lệ người trượt ở vòng thi này rất ít:
năm 2002 có 1.244 thí sinh đỗ 1.183 thí sinh
năm 2003 có 1.201 thí sinh đỗ 1.170 thí sinh
Người thi trượt ở vòng thi vấn đáp có quyền chỉ phải thi lại vòng thi này (vấn đáp) vào kỳ thi tư pháp của năm tiếp theo, dĩ nhiên là người này vẫn có nguyện vọng tiếp tục dự thi tư pháp.
Người thi trượt ở các vòng thi khác thì phải tham gia lại toàn bộ các vòng thi từ đầu. Không có hạn chế nào cho số lần dự thi kỳ thi tư pháp quốc gia. Việc một người phải qua 8 đến 10 kỳ thi tư pháp quốc gia mới trúng tuyển không phải là chuyện hiếm ở Nhật Bản.
Trong chương trình đổi mới đào tạo tư pháp tại Nhật bản, áp dụng từ 2006, kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ có một vòng thi, gồm thi trắc nghiệm và thi vấn đáp được tổ chức một lần.
Thường thì người trúng tuyển sẽ tham gia ngay khoá đào tạo của học viện tư pháp. Nhưng cũng có người nhiều năm sau mới tham gia khoá học. Có người sau khi nghỉ hưu mới bắt đầu tham gia khoá học. Nghĩa là kết quả của kỳ thi tư pháp quốc gia có giá trị bảo lưu suốt đời.
1.5. Học viện tư pháp thuộc Toà án tối cao Nhật Bản thực hiện thời gian đào tạo cho một khóa là 18 tháng, phân bổ như sau:
3 THÁNG HỌC TẠI TRƯỜNG
12 THÁNG THỰC TẬP
3 THÁNG HỌC TẠI TRƯỜNG
THI TỐT NGHIỆP
3 tháng thực tập xét xử hình sự
3 tháng thực tập kiểm sát
3 tháng thực tập luật sư
3 tháng thực tập xét xử dân sự
Đặc điểm chung của chương trình đào tạo là đây là một chương trình đào tạo chung. Trong suốt quá trình học, học viên sẽ chưa biết mình sau khi tốt nghiệp, sẽ là thẩm phán, luật sư hay kiểm sát viên. Tất cả các kỹ năng của cả ba chức danh này đều được học như sau. Quy định này xuất phát từ quan niệm cho rằng, để nền tư pháp phát triển, trình độ và năng lực của ba chức danh tư pháp là thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải đồngđều, phải được đào tạo trong một điều kiện như nhau.
Một điểm nữa là học viên học viên tư pháp được nhận lương từ Nhà nước. Nước Nhật quan niệm đây là những người sẽ góp phần bảo vệ nền công lý, bảo vệ sự ổn định của xã hội, sự phát triển của đất nước, vì vậy những học viên của Học viên tư pháp được coi là những công chức dự bị và họ được hưởng mức lương của công chức dự bị.
Tất nhiên, một bộ phận người Nhật không hài lòng với chế độ lương bổng của học viên Học viện tư pháp. Những người này cho rằng, đối với những người sẽ trở thành thẩm phán và kiểm sát viên thì có thể được hưởng lương trong thời gian đào tạo, nhưng những người sẽ là luật sư sẽ hành nghề tự do, họ kiếm tiền cho bản thân họ thì xã hội không thể trả tiền cho việc đào tạo họ. Nhưng đại bộ phận người dân Nhật thì vẫn cho rằng mặc dù luật sư là một nghề tự do, nhưng đó là một nghề đặc biệt, vì mục tiêu của nghề này không phải là lợi nhuận mà là các lợi ích công, đảm bảo cho nền công lý được thực thi. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại, nước Nhật vẫn trả lương cho tất cả các học viên tư pháp và người ta sử dụng khái niệm “công chức dự bị” để chỉ các học viên tư pháp.
Chỉ đến khi tốt nghiệp, căn cứ vào kết quả học tập, học viên của Học viện tư pháp mới xác định được nghề nghiệp của mình. Khoảng trên dưới 100 học viên của mỗi khóa đào tạo có thành tích học tập cao nhất sẽ được lựa chọn về Toà án và sẽ trở thành thẩm phán thông qua thủ tục bổ nhiệm. Một số lượng cũng tương tự sẽ trở thành kiểm sát viên. Các số lượng này tương đối ổn định, ít có biến động lớn qua các năm, căn cứ vào số thẩm phán, kiểm sát viên nghỉ hưu hàng năm.
Để lựa chọn được số lượng người trở thành thẩm phán, kiểm sát viên, ngoài việc căn cứ vào thành tích học tập, còn phải căn cứ vào chính nguyện vọng của người được lựa chọn và họ phải qua một kỳ phỏng vấn trước khi chính thức có quyết định tiếp nhận.
Số còn lại sẽ hành nghề luật sư. Với số lượng người học, hàng năm Học viện Tư pháp Nhật Bản cung cấp hàng nghìn luật sư cho xã hội. Đến thời điểm hiện tại, nhu cầu của nước Nhật về luật sư vẫn chưa có dấu hiệu bão hòa. Hàng năm, nước Nhật vẫn cần hơn một nghìn người cho cả ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và luật sư.
Dù đối tượng đầu vào, thời gian đào tạo có những thay đổi nhất định nhưng một điều không hề thay đổi, tính từ gần một trăm năm nay, ba chức danh Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư được đào tạo chung trong một hệ thống đào tạo.
6. Những kinh nghiệm và kết luận
Qua nghiên cứu đào tạo luật sư ở một số nước trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm và kết luận sau:
– Việc giảm bớt tính hàn lâm và đưa các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy các môn luật, việc mời các luật sư và thẩm phán có uy tín đến giảng bài, việc tăng tỷ lệ các câu hỏi về thực tiễn pháp luật là xu hướng tất yếu trong đào tạo để cấp bằng cử nhân luật. Học viện Tư pháp – cơ sở đào tạo nghề luật sư duy nhất của Việt nam hiện nay đã vận dụng những kinh nghiệm trên vào chương trình đào tạo luật sư. Vì đặc điểm của Việt nam là các học viên phải qua đào tạo luật và có bằng cử nhân luật mới được thi vào các khoá đào tạo luật sư nên Học viện đã chú trọng nhiều đến việc rèn luyện các kỹ năng hành nghề và giảm việc truyền đạt kiến thức lý thuyết đơn chiều cho học viên. Các bài giảng về chuyên đề pháp luật chỉ chiếm khoảng 20% chương trình với nội dung giảng các vấn đề mới trong pháp luật và các kiến thức chuyên sâu. Các bài giảng vụ việc, phân tích và xử lý các tình huống chiếm khoảng 50% chương trình. Học viện đã đưa vào giảng dạy nhiều phương pháp hiện đại như song giảng, giải quyết tình huống cụ thể, diễn án. Phương pháp song giảng với hai giảng viên cùng lên lớp, một giảng viên lý thuyết và một giảng viên thực hành (các luật sư có nhiều kinh nghiệm đang hành nghề) giúp học viện tiếp cận nội dung bài giảng trên nhiều khía cạnh, cả về lý luận và thực tiễn. Việc sử dụng phương pháp song giảng rất phù hợp đối với giảng dạy kỹ năng cho học viên, đặc biệt là các kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa, nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị luận cứ bào chữa, tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên Tòa trong xu thế mở rộng tranh tụng hiện nay. Phương pháp giải quyết tình huống cũng là một phương pháp đặc thù phù hợp với việc giảng dạy các kỹ năng tranh tụng. Dựa trên các hồ sơ tình huống cụ thể giảng viên hướng dẫn cho các học viên về cách xử lý tình huống. Bằng phương pháp này các học viên được thực hành phần kỹ năng đã học ngay tại các tình huống cụ thể trên lớp. Các tình huống được sử dụng vào giảng dạy là các hồ sơ vụ án do các Tòa án đã xét xử hay các văn phòng luật cung cấp và được Học viện biên tập lại. Phương pháp diễn án là tổ chức một phiên Tòa ngay trên lớp, các học viên sẽ được tham gia với tư cách luật sư trong một không khí tranh tụng thực sự trong các phiên tòa giả định. Học viên Học viện đã tổ chức các buổi diễn án với sự tham gia của cả ba đối tượng đào tạo: Thẩm phán, Kiểm sát viên và luật sư trong cùng một phiên tòa. Qua các bài học này học viên được trực tiếp thực hành kỹ năng xét xử, buộc tội hay gỡ tội.
– Mô hình đào tạo luật ở Mỹ và Đức cho thấy: Cần chú trọng đào tạo luật sư ngay ở trường đại học, đặc biệt về phương pháp đào tạo để ngay từ trên ghế nhà trường, sinh viên luật đã được rèn luyện tư duy của luật sư. Đây là một trong những luận cứ để đề xuất việc đào tạo cử nhân luật làm tiền đề để đào tạo luật sư ở Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp. Học viện Tư pháp – “Trung tâm lớn đào tạo cán bộ tư pháp”[15] sẽ xây dựng nguyên lý và công nghệ đào tạo cử nhân của riêng mình[16] làm tiền đề để đào tạo luật sư ở bước tiếp theo, đáp ứng nhu cầu của cải cách tư pháp và quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
– Tiền lệ đào tạo luật sư tranh tụng qua các bữa ăn trưa ở Inn of Court của Anh có thể là gợi ý để đa dạng hoá hoạt động đào tạo, tổ chức các cuộc gặp thân mật giữa các thẩm phán, luật sư có uy tín để truyền đạt kinh nghiệm cho các sinh viên, học viên và luật sư tập sự trong đào tạo luật sư ở Việt Nam. Tại Học viện Tư pháp sau mỗi giờ học tình huống, để kết thúc một bài học và chuyển sang bài khác nhà trường đều tổ chức các buổi đàm thoại giữa các học viên với các luật sư có nhiều kinh nghiệm để học viên có điều kiện tìm hiểu ở các luật sư về các vấn đề xung quanh bài học. Các buổi đàm thoại được diễn ra trong không khí cởi mở và học viên có cơ hội để giải đáp tất cả các vấn đề còn băn khoăn trong bài học.
– Trong thời gian thực tập, việc sinh viên luật ở Đức và luật sư tập sự ở Pháp được làm quen với các vụ việc thuộc nhiều lĩnh vực, từ dân sự, hình sự đến hành chính ở nhiều môi trường khác nhau như: tòa án cấp quận hay tòa án cấp cao, cơ quan công tố, hội đồng địa phương bốn tháng và tập sự cùng với một luật sư thực thụ cũng là một gợi ý cho việc đào tạo luật sư ở Việt Nam. Ở một góc độ nào đó, việc luật sư được thực tập ở nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều môi trường khác nhau sẽ giúp luật sư tương lai có kiến thức và kỹ năng tổng hợp, đồng thời xây dựng được những mối quan hệ cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp.
– Xu hướng của nhiều luật sư Đức hoạt động chuyên sâu trong một lĩnh vực pháp luật trong điều kiện số luật sư ngày càng nhiều, sự cạnh tranh trong nghề luật sư ngày càng gay gắt là gợi ý cho việc đào tạo các luật sư chuyên ngành ở Việt Nam, đặc biệt trong xu thế hội nhập. Hiện nay Học viện tư pháp chưa có chương trình đào tạo luật sư chuyên sâu nhưng thay vào đó Khoa đào tạo luật sư đã mở các lớp bồi dưỡng kiến thức cho luật sư hội nhập với các chuyên đề về nội dung cơ bản của WTO trong thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, về các nội dung cơ bản của các hiệp định thương mại khu vực, về kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Việc đào tạo dưới hình thức các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cần được tăng cường hơn nữa cùng với việc nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng lĩnh vực đào tạo và thời gian đào tạo.
– Kinh nghiệm đào tạo luật ở Đức cho thấy: Việc đánh giá kết quả học tập qua các kỳ thi với trách nhiệm giám sát, quản lý, đánh giá kỳ thi, thậm chí cả việc ra câu hỏi thi của Bộ Tư pháp là đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện thực tế Việt nam hiện nay, các học viên dự thi vào khoá đào tạo luật sư được đào tạo chương trình cử nhân luật ở các cơ sở đào tạo khác nhau và theo nhiều hệ đào tạo khác nhau như hệ đào tạo chuyên tu, hệ đào tạo văn bằng hai, hệ đào tạo tại chức…vv dẫn đến chất lượng của các học viên không đồng đều. Việc tổ chức kỳ thi đầu vào dưới sự giám sát của Bộ Tư pháp nhằm mục đích lựa chọn các học viên có mặt bằng trình độ nhất định để tiếp tục đào tạo nghề luật sư là đúng đắn và cần thiết, phù hợp tinh thần chỉ đạo không chỉ chú trọng về số lượng đào tạo mà còn chú trọng về chất lượng đào tạo.
– Kinh nghiệm đào tạo luật sư trong các chương trình giáo dục thường xuyên ở Mỹ cho thấy: Cần chú trọng đào tạo luật sư ngay cả sau khi đã cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập Đoàn luật sư. Ở Việt Nam, việc bồi dưỡng kiến thức sau khi được cấp chứng chỉ đào tạo kỹ năng hành nghề Luật sư có thể được thực hiện tại các Đoàn luật sư kết hợp với việc chỉ đạo của Bộ Tư pháp và việc đảm bảo chương trình giảng dạy của Học viện Tư pháp. Sau khi đã được tiếp thu các kiến thức cần thiết để hành nghề luật sư tại Học viên tư pháp (chương trình đào tạo của Học viện Tư pháp được Bộ tư pháp phê chuẩn), các Đoàn luật sư tại các tỉnh có thể tuỳ theo đặc điểm cụ thể của tỉnh, thành phố mình tiếp tục đào tạo thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cho các luật sư của mình.
– Quản lý luật sư hiện nay trên thế giới có 3 mô hình: Mô hình thứ nhất là Nhà nước quản lý (ví dụ như ở các nước Ả rập Xê út), mô hình thứ hai là Nhà nước và tổ chức xã hội cùng quản lý (ví dụ như Trung quốc, Singapore), mô hình thứ ba là tổ chức xã hội quản lý (ví dụ Úc, Anh, Mỹ, Nhật). Việc giao cho các tổ chức xã hội quản lý luật sư hay Nhà nước nắm giữ quản lý dựa trên cơ sở của các điều kiện về kinh tế xã hội, văn hoá, dựa trên sự phát triển của luật sư tại các nước này. Việc quản lý luật sư được giao cho Hiệp Hội Luật sư hay Đoàn Luật sư là các tổ chức Xã hội được thực hiện hầu hết ở các nước có nền kinh tế xã hội phát triển, đồng thời nghề luật sư cũng phát triển như Anh, Úc, Mỹ, Nhật[17]. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam việc quản lý luật sư do Nhà nước và tổ chức Xã hội cùng phối hợp là hết sức hợp lý. Việc đào tạo Luật sư phải được thực hiện trong một môi trường đào tạo đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đúng như Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay của Việt nam, dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp.
[1] Chương trình đào tạo luật của Pháp bao gồm: sau 3 năm học Luật có bằng Licencier, học thêm một năm nữa có bằng Maitrise – tương đương với trình độ cử nhân trong hệ thống giáo dục Việt Nam, thêm một năm nữa có bằng DEA – có thể tương đương với bằng Master ở các nước Common Law, học thêm 2-3 năm nữa có bằng Doctorat (Tiến sỹ)
[2] Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề luật sư, Hà Nội, 2002, tr.31-34.
[3] Trong số học viên học nghề luật sư tư vấn chỉ có 75% có bằng cử nhân luật, 15 % có bằng cử nhân và 10% thậm chí chưa có bằng cử nhân. Trước đây khoảng 13% luật sư tranh tụng chưa có bằng cử nhân nhưng hiện nay các Inns of Court chỉ nhận học viên (bar – student) với bằng cử nhân, không nhất thiết phải là cử nhân luật (К. Цвайгерг, Х. Кетч, Введение в сравнительное правоведение в сфере частного права, Том 1, Москва, 2000, c. 325 (Zweigert Kotz, Nhập môn Luật so sánh trong lĩnh vực luật tư, Tập 1, Moscow 2000, tr. 325)
[4] Trong vụ John v. Uỷ ban than quốc gia (năm 1955), Toà phúc thẩm đã yêu cầu xét xử lại với lý do thẩm phán xử sơ thẩm đã hỏi quá nhiều khiến các bên không thể xuất trình chứng cớ một cách tốt nhất.
[5] Vào thế kỷ 19, các Inn of Court thành lập Bar (Đoàn luật sư). Hiện tại ở Anh có 4 Inn of Court là Lincol’s Inn, Inter Temple, Middle Temple và Gray’s Inn.
[6] Романов А. К., Правая система Англии, Москва, 2002, стр. 284 – 292 (Romanov A.K., Hệ thống pháp luật Anh, Moscow, 2002, tr. 284-292)
[7] Robert W. Gordon, Giáo dục pháp luật ở Hoa Kỳ, Nguồn gốc và quá trình phát triển
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/gordon.htm
[8] Lê Thu Hà, Chế độ đào tạo luật gia tại Hoa Kỳ, Nghiên cứu Lập pháp, Số 2, 2005, tr.72-76
[9] John A. Serbert, Hội Luật gia và giáo dục pháp luật ở Mỹ
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/ serbert.htm
[10] Macarena Tamayo Calabrese, Giáo dục pháp luật thường xuyên ở Mỹ
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/calabrese.htm
[11] А. Жалинский, А. Рерихт, Введение в немецкое право, Москва, 2001, c. 80-112 ( A. Zalinskyi, A. Rohricht, Nhập môn luật Đức, Moscow, 2001, tr. 80-112)
[12] Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề luật sư, Hà Nội, 2002, tr. 39-41
[13] Nguyễn Văn Nam, Đào tạo luật và nghề luật ở Đức, Nghiên cứu Lập pháp, Số 8, 2005, tr.57-60
[14] Mục 1 sử dụng tư liệu của các giảng viên Nhật Bản, thuộc chương trình COOPERATION IN THE LEGAL AND JUDICIAL FIELD VIETNAM: PHASE III, PART I “Strengthening Vietnamese Judicial Training Institutions”, tổ chức từ 2/2/2004 đến 5/3/2004 tại Nhật bản)
[15] Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị BCH TW ĐCS VN về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
[16]Phan Hữu Thư, Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ cải cách tư pháp trong những năm qua, Tạp chí Nghề Luật, Số 1, 2006, tr. 6-15
[17]. Tuy nền văn hóa Nhật bản chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo Khổng, nhưng Nhật bản cũng được đánh giá là một nước có đội ngũ luật sư có trình độ chuyên môn và khả năng hành nghề rất cao. Việc đào tạo luật sư được trường đào tạo các chức danh tư pháp của Nhật đảm nhận. Kỳ thi vào trường này là một rào cản lớn đối với những ai muốn làm nghề luật sư. Mỗi năm trường chỉ lấy 1000 học viên cho cả ba chức danh tư pháp trên cả nước Nhật. Thông thường các thí sinh phải thi đến lần thứ 5 hay 6 mới đỗ. Thời gian đào tạo là 12 tháng cho cả chức danh Thẩm phán và Luật sư, chương trình đào tạo và toàn bộ các giáo trình do Viện nghiên cứu Pháp vụ trực thuộc Bộ tư pháp Nhật kiểm duyệt một cách chặt chẽ.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 3 NĂM 2006
 

thanhhuyen567

New Member
Không được tham gia tố tụng, làm tư vấn pháp luật, thay mặt ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác, làm sao người tập sự hành nghề luật sư có thể “tự bơi” một mình khi mãn hạn tập sự?

Luật Luật sư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2007, quy định từ nay về sau sẽ không còn chức danh “luật sư tập sự” nữa mà phải gọi họ là “người tập sự hành nghề luật sư”. Cùng với việc thay đổi tên gọi ấy, người tập sự hành nghề luật sư không còn tư cách “luật sư” nữa, không được làm bất cứ việc gì ngoài việc “giúp” luật sư hướng dẫn mình học nghề. Liệu chuyện này đã hợp lý?

Không cho xuống nước…

Khoản 3 Điều 14 Luật Luật sư nêu rõ: “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”.

Điều luật trên có nghĩa là người tập sự hành nghề luật sư (NTSHNLS) không được tham gia tố tụng ở các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, nhất là tham gia tại các phiên toà để bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. NTSHNLS không được tham gia hoạt động tư vấn pháp luật, nghĩa là không được tiếp khách hàng, hướng dẫn, góp ý kiến về mặt pháp luật và giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ (đơn từ , hợp đồng, di chúc, đến mẫu hồ sơ …) liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong quá trình giao dịch, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo…

Cạnh đó, NTSHNLS không được thay mặt ngoài tố tụng cho công dân khác, nghĩa là không được làm thay mặt cho khách hàng để giải quyết các công việc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi người đó tập sự với tư cách các nhân làm việc theo hợp đồng lao động. NTSHNLS cũng không được làm mọi thứ dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính (thí dụ dẫn dắt, đưa khách hàng đến các cơ quan thẩm quyền để giải quyết công việc theo yêu cầu); giúp đỡ, tư vấn hay thay mặt cho khách hàng trong quá trình khiếu tố; biên dịch các loại giấy tờ hay phiên dịch các cuộc tiếp xúc, xác nhận giấy tờ và giúp đỡ khách hàng thực hiện các công việc khác…

Như vậy là NTSHNLS bị cấm tiệt, cấm nhận làm tất cả mọi hoạt động thuộc phạm vi nghề nghiệp của luật sư, thậm chí không được làm những việc mà mọi công dân bình thường đều được làm (như thay mặt theo uỷ quyền, thay thế các đương sự tham gia tố tụng tại phiên toà; giúp thảo đơn, nộp đơn; dịch tài liệu; thay mặt theo uỷ quyền để tham gia khiếu nại, tố cáo; giúp giải thích, hướng dẫn luật lệ cho người khác)… Những việc này, mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự (không bị bệnh tâm thần, không còn khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình) đều được làm nhưng NTSHNLS không được làm. Vì vậy, có người cho rằng về tư cách pháp lý, NTSHNLS cũng được liệt vào như loại người … mất năng lực hành vi dân sự (?!).

… Làm sao biết bơi?

Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy lúc đầu (theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987), các luật sư tập sự đều được bào chữa (ở mọi cấp toà) và làm mọi việc giúp đỡ pháp lý cho khách hàng như luật sư thực thụ. Sau đó (theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001), luật sư tập sự vẫn có quyền và nghĩa vụ như luật sư, trừ một số việc “quan trọng” chưa được làm như đứng ra thành lập văn phòng luật sư, ký văn bản tư vấn pháp luật, tham gia các vụ án từ toà án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, toà án quân sự quân khu trở lên…

Nay thì luật mới cấm hết. Trong suốt cả 18 tháng tập sự, NTSHNLS chỉ được “giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp” mà không được trực tiếp làm dịch vụ pháp lý gì cho khách hàng cả. Chỉ được phụ trợ giúp việc cho luật sư hướng dẫn, liệu có phải đó là hay khi mà so với các ngành nghề khác, dù có thể có nguy hiểm thế mấy cho xã hội đi nữa, hễ đã “tập sự” là phải được thực tập, làm thử cho quen với mọi công việc của nghề? Lúc tập sự không được tập làm với sự giám sát, kèm cặp của “ông thầy” thì khi mãn hạn tập sự làm sao “tự bơi” một mình?!

Lâu nay các giám khảo sát hạch luật sư tập sự để cho làm luật sư thực thụ, họ thường hỏi người tập sự đã ra toà được mấy lần, cãi cọ ra sao, tư vấn cho khách hàng như thế nào… Tương lai đây có lẽ các giám khảo “kiểm tra tay nghề” phải đổi lại cách sát hạch cho phù hợp với luật mới: Bạn đã được “dòm” mấy phiên toà có luật sư cãi? Bạn đã nghe được luật sư tư vấn cho khách hàng mấy bận. Bạn có biết viết đơn giùm người khác là đã vi phạm pháp luật không? Không được tư vấn mà lại biết đủ chuyện của người ta cũng có thể là xâm phạm “bí mật đời tư, bí mật thông tin” của nghề?...

Những điều đó và hậu quả của nó đang là mối ưu tư của ngiều người, nhất là những NTSHNLS! Vấn đề này cần được cơ quan thẩm quyền giải thích rõ hơn khi mà Nghị định 28 ngày 26-2-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Luật sư cũng như Thông tư 02 ngày 25-4-2007 của Bộ Tư pháp đều chưa hề “đả động” đến

Luật Luật sư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2007, quy định từ nay về sau sẽ không còn chức danh “luật sư tập sự” nữa mà phải gọi họ là “người tập sự hành nghề luật sư”. Cùng với việc thay đổi tên gọi ấy, người tập sự hành nghề luật sư không còn tư cách “luật sư” nữa, không được làm bất cứ việc gì ngoài việc “giúp” luật sư hướng dẫn mình học nghề. Liệu chuyện này đã hợp lý?
Không cho xuống nước…
Khoản 3 Điều 14 Luật Luật sư nêu rõ: “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”.
Điều luật trên có nghĩa là người tập sự hành nghề luật sư (NTSHNLS) không được tham gia tố tụng ở các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, nhất là tham gia tại các phiên toà để bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. NTSHNLS không được tham gia hoạt động tư vấn pháp luật, nghĩa là không được tiếp khách hàng, hướng dẫn, góp ý kiến về mặt pháp luật và giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ (đơn từ , hợp đồng, di chúc, đến mẫu hồ sơ …) liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong quá trình giao dịch, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo…
Cạnh đó, NTSHNLS không được thay mặt ngoài tố tụng cho công dân khác, nghĩa là không được làm thay mặt cho khách hàng để giải quyết các công việc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi người đó tập sự với tư cách các nhân làm việc theo hợp đồng lao động. NTSHNLS cũng không được làm mọi thứ dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính (thí dụ dẫn dắt, đưa khách hàng đến các cơ quan thẩm quyền để giải quyết công việc theo yêu cầu); giúp đỡ, tư vấn hay thay mặt cho khách hàng trong quá trình khiếu tố; biên dịch các loại giấy tờ hay phiên dịch các cuộc tiếp xúc, xác nhận giấy tờ và giúp đỡ khách hàng thực hiện các công việc khác…
Như vậy là NTSHNLS bị cấm tiệt, cấm nhận làm tất cả mọi hoạt động thuộc phạm vi nghề nghiệp của luật sư, thậm chí không được làm những việc mà mọi công dân bình thường đều được làm (như thay mặt theo uỷ quyền, thay thế các đương sự tham gia tố tụng tại phiên toà; giúp thảo đơn, nộp đơn; dịch tài liệu; thay mặt theo uỷ quyền để tham gia khiếu nại, tố cáo; giúp giải thích, hướng dẫn luật lệ cho người khác)… Những việc này, mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự (không bị bệnh tâm thần, không còn khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình) đều được làm nhưng NTSHNLS không được làm. Vì vậy, có người cho rằng về tư cách pháp lý, NTSHNLS cũng được liệt vào như loại người … mất năng lực hành vi dân sự (?!).
… Làm sao biết bơi?
Quá trình phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy lúc đầu (theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987), các luật sư tập sự đều được bào chữa (ở mọi cấp toà) và làm mọi việc giúp đỡ pháp lý cho khách hàng như luật sư thực thụ. Sau đó (theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001), luật sư tập sự vẫn có quyền và nghĩa vụ như luật sư, trừ một số việc “quan trọng” chưa được làm như đứng ra thành lập văn phòng luật sư, ký văn bản tư vấn pháp luật, tham gia các vụ án từ toà án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, toà án quân sự quân khu trở lên…
Nay thì luật mới cấm hết. Trong suốt cả 18 tháng tập sự, NTSHNLS chỉ được “giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp” mà không được trực tiếp làm dịch vụ pháp lý gì cho khách hàng cả. Chỉ được phụ trợ giúp việc cho luật sư hướng dẫn, liệu có phải đó là hay khi mà so với các ngành nghề khác, dù có thể có nguy hiểm thế mấy cho xã hội đi nữa, hễ đã “tập sự” là phải được thực tập, làm thử cho quen với mọi công việc của nghề? Lúc tập sự không được tập làm với sự giám sát, kèm cặp của “ông thầy” thì khi mãn hạn tập sự làm sao “tự bơi” một mình?!
Lâu nay các giám khảo sát hạch luật sư tập sự để cho làm luật sư thực thụ, họ thường hỏi người tập sự đã ra toà được mấy lần, cãi cọ ra sao, tư vấn cho khách hàng như thế nào… Tương lai đây có lẽ các giám khảo “kiểm tra tay nghề” phải đổi lại cách sát hạch cho phù hợp với luật mới: Bạn đã được “dòm” mấy phiên toà có luật sư cãi? Bạn đã nghe được luật sư tư vấn cho khách hàng mấy bận. Bạn có biết viết đơn giùm người khác là đã vi phạm pháp luật không? Không được tư vấn mà lại biết đủ chuyện của người ta cũng có thể là xâm phạm “bí mật đời tư, bí mật thông tin” của nghề?...
Những điều đó và hậu quả của nó đang là mối ưu tư của ngiều người, nhất là những NTSHNLS! Vấn đề này cần được cơ quan thẩm quyền giải thích rõ hơn khi mà Nghị định 28 ngày 26-2-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Luật sư cũng như Thông tư 02 ngày 25-4-2007 của Bộ Tư pháp đều chưa hề “đả động” đến





Tiêu chuẩn của luật sư được quy định tại Điều 9 Dự thảo Luật Luật sư: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Điều 10 Dự thảo Luật Luật sư quy định điều kiện để hành nghề luật sư là phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư (Các tác giả viết bài này vào thời điểm Luật Luật sư năm 2006 đang trong quá trình xây dựng – Civillawinfor).



1. Đào tạo luật sư ở Pháp
Điều kiện bắt buộc để hành nghề luật sư ở Pháp là phải là thành viên của Đoàn luật sư địa phương (barreau) với điều kiện gia nhập là phải có bằng Maitrise về luật[1], phải có Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư (Certificat d’aptitude à la profession d’advocat), sau đó làm luật sư thực tập trong 2 năm.
Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư do Trung tâm đào tạo luật sư cấp. Việc giảng dạy ở Trung tâm do các luật sư, thẩm phán có uy tín và giáo sư đầu ngành đảm nhiệm.
Để được vào học tại Trung tâm, các học viên phải qua kỳ thi tuyển. Đây là kỳ thi tuyển rất khó, thường tỷ lệ đỗ khoảng 30%. Việc miễn thi đầu vào khoá học này dành cho một số đối tượng như người có bằng tiến sĩ luật, các luật gia làm việc trong các hãng luật lớn, các thẩm phán, giảng viên đại học luật và các công chứng viên. Trung tâm sẽ đào tạo cả về lý thuyết và thực hành cho học viên trong một khoá học kéo dài 18 tháng. Khoá học này được chia làm 3 giai đoạn: 6 tháng đầu các học viên tham gia khoá học tại Trung tâm, 6 tháng tiếp theo các học viên sẽ được gửi đi học tại một trường đại học, 6 tháng cuối các học viên thực tập tại văn phòng luật sư.
Ở Pháp đã thực hiện một cuộc cải cách lớn đối với việc đào tạo và hành nghề luật sư vào tháng 12/2004, mục đích của cuộc cải cách này là nâng cao tính thực tiễn, giảm bớt số lượng giờ học lý thuyết trong khoá đào tạo luật sư. Đặc biệt kỳ thi tuyển đầu vào ở các khoá học này trở nên vô cùng khó khăn với các đề thi rất khó. Cuối khoá học, học viên phải trải qua kỳ thi về khả năng hành nghề luật sư và nếu vượt qua kỳ thi này, các học viên sẽ được cấp Chứng chỉ về khả năng hành nghề Luật sư.
Người có Chứng chỉ về khả năng hành nghề luật sư được ghi tên vào danh sách luật sư tập sự của một Đoàn luật sư (Điều 12 Luật số 71-1130 ngày 31/12/1971). Trong thời gian 6 tháng đầu, luật sư vẫn phải tiếp tục học tập tại Trung tâm đào tạo luật sư sau đó luật sư tập sự tại Văn phòng luật sư hay Toà án khoảng 1 năm. 6 tháng còn lại, luật sư có thể tập sự tại Văn phòng công chứng, Văn phòng kiểm toán hay Ban pháp luật của doanh nghiệp. Kết thúc 2 năm tập sự, luật sư tập sự được Trung tâm đào tạo luật sư chứng nhận hoàn tất chương trình tập sự và có thể trở thành luật sư chính thức (Điều 79 Sắc lệnh ngày 31/12/1991)[2].
2. Đào tạo luật sư ở Anh
Ở Anh, để trở thành luật sư không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật[3].
Việc đào tạo luật sư ở Anh không chú trọng tính bài bản mà thiên về thực tiễn, các luật sư Anh được đào tạo chủ yếu về thủ tục tố tụng và thu thập, xác minh chứng cứ bởi theo pháp luật Anh, về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình tố tụng là trách nhiệm của các bên (thông qua luật sư của mình), vai trò của thẩm phán trong xét xử chỉ là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng[4].
Nghề luật sư ở Anh được xây dựng trên mô hình tổ chức tư pháp và tố tụng của Anh được hình thành từ thế kỷ 12-13. Luật sư Anh gồm hai loại: luật sư bào chữa (barristors) và luật sư tư vấn (solicitors) – đây là điểm khác biệt xuất phát từ đặc thù của hệ thống án lệ.
Các luật sư Anh chịu sự quản lý của các tổ chức luật sư – Inns of Court và Law Society.
Inns of Court hình thành từ đầu thế kỷ 14, có thư viện luật và là nơi mở các khoá đào tạo cho những người muốn trở thành luật sư biện hộ. Thời Trung cổ, các sinh viên luật đến London để học và thực tập bên cạnh các thẩm phán tại Toà án cấp cao đã ăn, ngủ tại Inns of Court – thực ra là khu ăn ở của các luật gia trong Toà án. Mỗi Inn of Court có một nhà thờ, một thư viện và một đại sảnh – nơi mọi người ăn uống khi đến bữa, đồng thời cũng là nơi hội họp và giảng dạy về thực tiễn[5].
Người muốn trở thành luật sư biện hộ phải là một khoá sinh của Inn of Court để được đào tạo và phải thi đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư biện hộ. Thời gian đào tạo ở các Inn of Court được đo bằng các “kỳ ăn trưa” thường kéo dài khoảng 3 tuần tuỳ Inn of Court quy định. Thông thường mỗi năm có khoảng 4 “kỳ ăn trưa” để đào tạo các khoá sinh. Trong mỗi “kỳ ăn trưa”, khoá sinh phải ăn trưa ít nhất ba lần trong đại sảnh của Inn of Court. Để trở thành luật sư biện hộ, khoá sinh phải trả qua ít nhất tám “kỳ ăn trưa”. Thời xưa, các bữa ăn trưa được coi là để giảm bớt khoảng cách giữa các luật sư biện hộ chính thức và các khóa sinh, ngày nay ở Anh việc ăn trưa cùng để đào tạo phần nhiều mang tính chất nghi lễ.
Việc công nhận luật sư biện hộ do Hội đồng của Inn of Court (Bencher of Inn) thực hiện sau khi khoá sinh đã thi đỗ kỳ thi lý thuyết và thực hành và trải qua thời gian thực tập một năm[6].
Hội Luật sư (Law Society) được thành lập từ thế kỷ 18 là tổ chức tập hợp các luật sư tư vấn. Hội đã ban hành Bộ luật ứng xử (Code of Conduct) bao gồm các quy tắc điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp của các luật sư tư vấn. Để trở thành luật sư tư vấn chỉ cần học 9 tháng tại Trường luật của Hội Luật sư (với các môn học gắn với thực tế như lập hợp đồng bất động sản, luật thuế, luật thừa kế, luật thương mại, luật công ty…), thi đỗ kỳ thi chuyên môn do Hội Luật sư tổ chức và trải qua hai năm tập sự ở một trong những văn phòng luật sư tư vấn với tư cách nhân viên (article clek).
3. Đào tạo luật sư ở Mỹ
Mỹ được coi là nước có nghề luật sư phát triển nhất thế giới. Ở Mỹ có khoảng 1 triệu luật sư (trung bình 220 người dân có một luật sư), việc đào tạo luật sư ở Mỹ có nhiều điểm đáng chú ý.
Nghề luật sư ở Mỹ ra đời muộn hơn so với nghề luật sư ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức. Nước Mỹ với thể chế liên bang, tính đa dạng của các bang thành viên và sắc tộc đòi hỏi phải có mô hình tư pháp riêng và mô hình nghề luật thống nhất. Mô hình này ra đời trong bối cảnh môi trường pháp lý và xã hội đặc thù, ở đó nhà nước giảm thiểu sự can thiệp vào đời sống xã hội, trong tố tụng áp dụng nguyên tắc đối kháng, tại phiên toà thẩm phán và bồi thẩm đoàn chỉ căn cứ vào những gì họ nghe thấy tại phiên toà để đưa ra phán quyết của mình. Trong phòng xử án luật sư không bảo vệ công lý mà bảo vệ cho lý lẽ của mình. Người Mỹ có ý thức rằng chỉ cần luật sư giỏi là họ có cơ may thắng kiện và trên thực tế điều đó không phải là không có cơ sở.
Các luật sư Mỹ, dù có khác biệt về chuyên môn, danh tính và thu nhập nhưng đều làm một nghề có tính thống nhất và cùng có bằng cấp, học vấn và được đào tạo cơ bản chính thức như nhau. Hầu hết các bang ở Mỹ đều đòi hỏi người muốn trở thành luật sư phải hoàn thành 4 năm cao đẳng sau đó là 3 năm ở một trong 185 trường luật được Hội Luật gia Hoa Kỳ công nhận, cuối cùng phải đỗ kỳ thi công nhận luật sư. Kỳ thi công nhận luật sư của bang thường kéo dài từ hai đến ba ngày và gồm ít nhất hai phần: phần thi khách quan (Thi Luật sư Liên bang của Uỷ ban Quốc gia Giám khảo Luật sư (NCBE) kiểm tra kiến thức cơ bản về các vấn đề nền tảng như hợp đồng, tài sản, vi phạm dân sự, luật tố tụng và luật hiến pháp; phần thi viết bài luận về các chủ đề. Việc sử dụng Bài kiểm tra trắc nghiệm Multistate Perfomance Test (kiểm tra kỹ năng luật sư bằng cách đưa ra tình huống thực tế và những nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tình huống để yêu cầu thí sinh đưa ra văn kiện pháp lý (hợp đồng, lời biện hộ…) cũng được sử dụng phổ biến.
Có tới 50-80% thí sinh đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư này nên việc được nhận vào học ở trường luật là điều kiện mấu chốt để được chấp nhận làm luật sư ở Mỹ. Việc tuyển sinh vào trường luật có tính chọn lọc cao và được quyết định bởi kết quả học ở bậc cao đẳng và kết quả trong kỳ thi tuyển sinh LSAT. Ví dụ: Trường luật Yale có 5000 thí sinh nộp đơn xin học trên tổng số 170 chỉ tiêu tuyển sinh. Chi phí để vào học ở trường luật cũng là rào cản đáng phải kể đến: sinh viên ở các trường luật tư phải đóng khoảng 30.000 USD mỗi năm, sinh viên ở các trường luật công cũng phải đóng khoảng 15.000 – 20.000 USD mỗi năm[7].
Ở các trường luật đều dạy giống nhau trong năm đầu tiên với các khóa học về tài sản, hợp đồng, các vụ án dân sự, trình tự thủ tục, luật hình sự và tất cả được dạy chủ yếu theo phương pháp giảng tích cực (đối thoại với sinh viên) và phương pháp tình huống (case study). Theo yêu cầu của giáo sư, sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, bao gồm: các bản án (case method), các văn bản pháp luật, học thuyết pháp lý liên quan, một số bài viết về kinh tế và xã hội học (modified case method). Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp Socrate, theo đó sinh viên làm việc theo nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học. Giáo sư sẽ đặt câu hỏi cho các học viên, thay đổi tình tiết các vụ việc…Đối với sinh viên từ năm thứ ba trong trường luật có thể áp dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical method), theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và thay mặt cho khách hàng thực sự trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp dưới sự theo dõi của luật sư – đồng thời là giáo sư. Các trường luật hướng tới việc đào tạo những con người có khả năng tư duy, có trình độ lý luận, có năng lực làm việc độc lập. Sinh viên phải nỗ lực trong nghiên cứu, tìm tòi, phân tích các văn bản luật cũng như tình tiết vụ việc cụ thể để có thể đưa ra các quan điểm, ý kiến và cách lập luận thuyết phục nhất[8]. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề trong chương trình trường luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn đã có thể làm việc được.
Giáo dục pháp luật ở Mỹ có truyền thống đào tạo sinh viên luật suy nghĩ và hành động như những luật sư ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hầu hết các trường luật ở Mỹ đều kết luận rằng việc kết hợp các giảng viên chính thức (đa số đều có kinh nghiệm trong nghề luật trước khi tham gia giảng dạy luật) và những thẩm phán có kinh nghiệm tham gia giảng dạy là phù hợp nhất để đào tạo nghề cho các luật sư tương lai.
Trong đào tạo luật sư ở Mỹ phải kể đến vai trò của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA) – tổ chức quốc gia về ngành luật ở Mỹ. ABA đã xác định rằng cần xây dựng một quy trình quốc gia để đảm bảo chất lượng đào tạo luật sư. Năm 1921 ABA đã đưa ra bản quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của giáo dục pháp luật và danh sách các trường luật được công nhận là đáp ứng được tiêu chuẩn này[9].
Năm 1992, Ban Giáo dục Pháp luật và Công nhận Luật sư của Hội Luật gia Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo MacCrate về tình hình giáo dục và công tác đào tạo. Báo cáo được công nhận trong toàn nước Mỹ như văn bản quan trọng trong phát triển đội ngũ luật sư. Báo cáo MacCrate coi những kỹ năng và giá trị sau đây có ý nghĩa vô cùng quan trọng để có thể hành nghề luật sư một cách thành thạo:
– Các kỹ năng: Giải quyết vấn đề; phân tích và suy luận pháp lý; nghiên cứu pháp luật; điều tra thực tế; giao tiếp; tư vấn; thương lượng; kiến thức về tranh tụng và các thủ tục giải quyết tranh chấp; tổ chức và quản lý công việc pháp lý; nhận biết và giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức.
– Các giá trị: Đại diện theo đúng thẩm quyền; đấu tranh thúc đẩy công lý, công bằng và đạo đức; tự phát triển về chuyên môn.
Báo cáo MacCrate thừa nhận rằng sẽ không hợp lý khi trông đợi các trường luật gánh vác nhiệm vụ biến các sinh viên dù rất có năng lực thành những luật sư hoàn hảo được cấp giấy phép giải quyết các vấn đề pháp luật. Ba năm học tại trường luật mới chỉ tạo dựng được nền tảng. Báo cáo nhấn mạnh: “việc phát triển các kỹ năng và giá trị của người luật sư có khả năng và trách nhiệm là một quá trình liên tục, nó bắt đầu từ trước khi vào học tại trường luật, đạt tới mức định hình rõ nét và chuyên sâu trong quá trình học tại trường luật và sẽ tiếp tục trong suốt quá trình hành nghề luật sư.
Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên trong suốt quá trình hành nghề luật sư có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giảng dạy những kỹ năng và giá trị mà người luật sư cần có để đạt được và duy trì những chuẩn mực nghề nghiệp. Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên cho luật sư có nhiều hình thức khác nhau, được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau và do nhiều tổ chức thực hiện việc giáo dục, quản lý.
Đào tạo luật sư tại các công ty luật: Các công ty luật lớn ở Mỹ thường tiến hành giáo dục thường xuyên cho luật sư một cách chính thức. Chương trình đào tạo có thể khác nhau nhưng việc đào tạo luật sư tại nơi làm việc sẽ tạo điều kiện cho nội dung giảng dạy phù hợp với yêu cầu của chính công ty. Hình thức đào tạo tại nơi làm việc – đặc biệt cho luật sư mới còn gồm các hội thảo về soạn thảo văn bản pháp lý, kỹ năng đàm phán hợp đồng, kỹ năng kiện tụng…Các công ty luật có quy mô nhỏ không tổ chức các chương trình đào tạo nội bộ chính thức cho luật sư mới mà thường cập nhật các kỹ năng hành nghề luật sư ngay trong quá trình làm việc.
Đào tạo luật sư tại các tổ chức đào tạo: Có rất nhiều tổ chức đào tạo thường xuyên như Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Hội Luật gia Hoa kỳ, Uỷ ban Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Viện Luật Hoa Kỳ, Hội Luật gia Hoa Kỳ, các đoàn luật sư của bang và địa phương, các trường luật…Thông qua Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên, Hội Luật gia Hoa kỳ tiến hành đào tạo luật sư dưới một loạt hình thức như các cuộc hội thảo từ 1-3 ngày nhằm cập nhật hàng năm về các lĩnh vực pháp luật thực tế, các hội nghị qua truyền hình, qua mạng Internet…Diễn giả trong các hội thảo, hội nghị này là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực pháp luật cụ thể được trình bày. Một ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức đào tạo qua thảo luận trực tiếp này là khả năng tương tác hay thiết lập mạng lưới quan hệ giữa các luật sư vốn hoạt động trong cùng lĩnh vực hay trong các lĩnh vực có liên quan[10].
Mỗi bang trong số 50 bang của Mỹ đều quy định luật sư phải có giấy phép mới được hành nghề tại bang đó và mỗi bang cũng đặt ra các yêu cầu của riêng mình về việc duy trì hiệu lực của giấy phép hành nghề luật. 40 trong số 50 bang của Mỹ quy định luật sư phải thường xuyên tham gia các khoá học giáo dục pháp luật thường xuyên. Hội luật gia Hoa Kỳ đã thông qua Quy định mẫu về giáo dục pháp luật thường xuyên năm 1986 làm chuẩn mực cho tổ chức đào tạo cho các luật sư. Trên cơ sở đó, các bang đã thông qua quy định của riêng mình với số giờ phải học tối thiểu của luật sư từ 12 đến 15 giờ trong một năm. Ngoài ra còn có những quy định riêng đối với luật sư mới vào nghề: những luật sư hành nghề chưa tới 3 năm có thể phải qua một số khoá học căn bản về kỹ năng ngay sau khi gia nhập đoàn luật sư. Luật sư ở mọi trình độ đều bắt buộc phải tham gia một số giờ đào tạo nhất định về đạo đức nghề nghiệp, về chuyên môn luật sư…
4. Đào tạo luật sư ở Đức
Ở Đức không tồn tại mô hình đạo tạo riêng cho từng nghề luật như nghề thẩm phán, nghề luật sư… mà chỉ có một quy trình đào tạo chung cho mọi nghề luật. Hiện nay ở Đức, các sinh viên luật sau khi tốt nghiệp có rất ít cơ hội được tuyển vào làm thẩm phán, do ngành toà án ít có nhu cầu bổ sung. Đồng thời, biên chế trong các cơ quan công tố và cơ quan hành chính nhà nước luôn có giới hạn khiến đa số sinh viên luật ra trường phải chọn nghề luật sư để kiếm sống. Tình trạng này khiến chúng ta có thể có nhận xét rằng đào tạo luật ở Đức thực chất là đào tạo các luật sư.
Đức là nước có truyền thống đào tạo nghề luật nói chung và đào tạo luật sư nói riêng khá lâu đời. Từ thế kỷ XIV, các trường đại học tổng hợp đầu tiên của Đức, trong đó có khoa luật đã được thành lập – đến nay, các khoa luật này vẫn là những cơ sở đào tạo luật chính thức của Đức.
Ở Đức, toàn bộ thời gian đào tạo luật được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất – đào tạo pháp luật ít nhất là ba năm rưỡi tại trường đại học. Giai đoạn thứ hai – đào tạo thực hành nghề luật kéo dài ít nhất là hai năm.
Bất kỳ ai, nếu muốn trở thành luật sư, công chứng viên, thẩm phán, công tố viên… đều phải thi tuyển hay được xét tuyển vào học tại các trường Đại học luật hay khoa luật tại các trường đại học tổng hợp (hiện nay, trên toàn nước Đức có khoảng 50 khoa luật trực thuộc các trường đại học nằm rải rác ở 16 bang).
Trong giai đoạn thứ nhất, các sinh viên luật sẽ phải học trong một khoảng thời gian ít nhất là ba năm rưỡi với các môn học mang tính cơ sở về khoa học luật như: lịch sử các học thuyết pháp luật, lịch sử pháp luật, triết học, xã hội học pháp luật và các môn luật mang tính chất bắt buộc như: luật hiến pháp, luật dân sự, luật hình sự, luật hành chính, luật tố tụng dân sự…
Bên cạnh các môn học mang tính bắt buộc thì sinh viên luật ở Đức cũng có các môn học tự chọn, đó có thể là môn luật về thuế, luật về cộng đồng châu Âu, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ… Việc thiết kế các môn học bắt buộc và tự chọn tùy thuộc vào chương trình của mỗi trường.
Về phương pháp đào tạo luật ở Đức thì hiện nay đang xuất hiện hai quan điểm khác nhau, đó là: quan điểm cải cách và quan điểm bảo thủ. Nhóm quan điểm cải cách cho rằng, nước Đức cũng như nhiều nước trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa cần tiếp nhận phương pháp thực tiễn trong đào tạo luật của các nước Anh – Mỹ. Nghĩa là, cần giảm bớt tính hàn lâm và phải đưa các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy các môn luật. Nhóm quan điểm bảo thủ lại cho rằng, chế độ đào tạo pháp luật của nước Đức theo truyền thống vẫn rất hiệu quả. Bởi việc đào tạo pháp luật trong giai đoạn thứ nhất gắn với việc đào tạo kiến thức pháp luật cơ bản, tổng hợp, với mục đích cung cấp các kiến thức toàn diện cho sinh viên. Còn các kiến thức chuyên sâu và kỹ năng thực hành mang tính chất nghề luật là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn hai. Tuy nhiên, các kết quả khảo sát gần đây cho thấy, nhiều khoa luật trên lãnh thổ của Đức đã chú trọng đến việc cân đối giữa hàm lượng lý thuyết và thực tiễn pháp luật trong cơ cấu các môn học. Điều này được minh chứng bằng việc ngày càng có nhiều luật sư và thẩm phán có uy tín được các khoa luật mời đến giảng bài cho sinh viên. Bên cạnh đó, trong hệ thống câu hỏi của các kỳ thi tốt nghiệp giai đoạn thứ nhất, tỷ lệ các câu hỏi về thực tiễn pháp luật ngày càng tăng.
Nếu nhìn vào quy trình tổ chức kỳ thi tốt nghiệp và việc đánh giá kết quả học tập qua các kỳ thi, đặc biệt là thi tốt nghiệp cho giai đoạn thứ nhất thì có thể khẳng định rằng, việc đào tạo pháp luật ở Đức có chất lượng rất cao. Pháp luật của Đức quy định: Bộ Tư pháp của mỗi bang có trách nhiệm giám sát, quản lý, đánh giá kỳ thi này, thậm chí cả việc ra câu hỏi thi. Các câu hỏi thi thường dài và phức tạp, chẳng hạn như, kỳ thi tốt nghiệp giai đoạn thứ nhất ở bang Bavarian có tới tám câu hỏi, sinh viên phải hoàn thành bài thi trong thời gian năm tiếng. Đây thực sự là một áp lực đối với bất cứ sinh viên luật nào. Theo tài liệu thống kê được công bố năm 2003, thì chỉ có khoảng 65% sinh viên đạt yêu cầu, còn 35% sinh viên phải thi lại trong các lần thi tiếp theo.
Sau khi đã vượt qua kỳ thi của giai đoạn thứ nhất, các sinh viên luật sẽ được tiếp tục theo học giai đoạn thứ hai – giai đoạn đào tạo nghề luật, nghĩa là, đào tạo các kiến thức pháp luật thực hành. Việc đào tạo nghề luật của giai đoạn thứ hai kéo dài hai năm và cũng được kết thúc bằng một kỳ thi. Nếu không vượt qua kỳ thi này thì sinh viên luật sẽ không nhận được học vị cử nhân. Giai đoạn đào tạo kiến thức và kỹ năng của các nghề luật cụ thể là một phần không thể thiếu trong đào tạo luật ở bậc đại học[11]. Pháp luật của Đức quy định một quy trình chung cho đào tạo mọi nghề luật, nghĩa là, các sinh viên luật, sau khi tốt nghiệp đại học có đủ tư cách hoạt động ở mọi nghề luật. Thông thường, thầy giáo giảng trong các giờ học này là những thẩm phán hay các chuyên viên pháp lý có kinh nghiệm. Những sinh viên luật dù đã định hướng nghề nghiệp như: nghề luật sư, thẩm phán… thì vẫn phải tham gia tập sự ở tòa án cấp quận hay tòa án cấp cao trong thời gian sáu tháng; ở cơ quan công tố ba tháng; ở hội đồng địa phương bốn tháng và bốn tháng tập sự cùng với một luật sư thực thụ. Như vậy, trong thời gian thực tập, sinh viên luật sẽ làm quen với các vụ việc thuộc nhiều lĩnh vực, từ dân sự, hình sự đến hành chính… Mức độ tiếp cận với thực tiễn nghề luật sẽ phụ thuộc vào số lượng công việc nơi thực tập và khả năng học tập của sinh viên. Khi đã hoàn thành nhiệm vụ tập sự ở các cơ quan nói trên, trong thời gian bảy tháng còn lại, họ có thể tùy chọn tập sự lại ở một trong các vị trí nói trên, nhằm tăng thêm khả năng chuyên sâu nghề nghiệp. Trong bảy tháng này, những sinh viên có định hướng làm nghề thẩm phán thường sẽ chọn tòa án là nơi tăng cường thực tiễn. Còn những sinh viên có tham vọng theo nghề luật sư, thì địa chỉ mà họ thực tập là các công ty luật hay các đoàn luật sư. Giai đoạn thực hành nghề luật của sinh viên cũng được kết thúc bằng một kỳ thi tốt nghiệp. Kỳ thi này còn được coi là quan trọng và khó hơn kỳ thi tốt nghiệp trong giai đoạn thứ nhất.
Tất cả những thí sinh đã qua kỳ thi thứ hai đều có thể đăng ký làm luật sư ở cơ quan tư pháp địa phương và được cơ quan này cấp Giấy phép hành nghề luật sư một cách đương nhiên (chỉ trừ một số trường hợp do Quy chế luật sư quy định)[12]
Điều kiện để trở thành luật sư ở Đức và ở Pháp về cơ bản là giống nhau, tuy nhiên chương trình đào tạo luật sư ở Đức dài hơn: ở Pháp có thể trở thành luật sư ở độ tuổi 22-23, ở Đức người ta phải cố gắng lắm mới có thể trở thành luật sư trước tuổi 30.
Theo con số thống kê năm 2001, toàn Liên bang Đức có khoảng 110.367 luật sư được công nhận tư cách trong các đoàn luật sư. Đến tháng 1/2003, số luật sư được công nhận tư cách trong các đoàn luật sư đã lên tới 121.420 người, tăng khoảng 4,4% so với 12 tháng trước đó. Nghề luật sư ở Đức cũng như ở nhiều nước trên thế giới, tính cạnh tranh ngày càng cao, do đó hình thành xu hướng ngày càng có nhiều luật sư hoạt động chuyên sâu trong một lĩnh vực pháp luật như: luật hôn nhân gia đình, luật thuế, luật hình sự, luật hành chính, luật sở hữu trí tuệ…[13]
5. Đào tạo luật sư ở Nhật Bản[14]
1.1. Nhật Bản là nước áp dụng chế độ tam quyền phân lập, gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội gồm Thượng nghị viện và hạ nghị viện; quyền hành pháp thuộc nội các (chính phủ) và quyền tư pháp thuộc toà án.
Ba quyền này can thiệp và tác động lẫn nhau nhằm giữ cân bằng, tránh sự lạm quyền giữa ba hệ thống cơ quan này.
Quyền Tư pháp ở Nhật Bản thuộc về Toà án tối cao và các toà án địa phương. Theo khoản 1 điều 76 Hiến pháp Nhật bản, toà án địa phương bao gồm tám toà án khu vực, 50 toà án địa phương, 50 toà án gia đình, 438 toà giản lược.
Ngoài ra, có hai tổ chức quan trọng khác, mặc dù không thuộc hệ thống toà án, nhưng cũng được coi là có quyền tư pháp là viện kiểm sát và hội luật sư.
Vì vậy, các chức danh tư pháp ở Nhật bản là thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Bởi lẽ đó, ở Nhật bản có câu “Nâng đỡ chế độ tư pháp là ba chức danh: thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư”. Đây cũng có thể coi là quan niệm riêng của Nhật bản về các chức danh tư pháp.
1.2. Để trở thành người có chức danh tư pháp ở Nhật bản phải qua khoá đào tạo tại Học Viện Tư pháp nhật bản.
Ở nhật bản, việc đào tạo tư pháp được bắt đầu từ năm 1886. Sau khi chế độ phong kiến cuối cùng – Chế độ EDO- sụp đổ năm 1867, nước Nhật bước vào thời kỳ Minh Trị cách tân. Nước Nhật mở rộng cánh cửa ra thế giới, đặc biệt là các nước Âu- Mỹ. Nhiều thành tựu của thời kỳ này vẫn còn giữ được giá trị cho đến bây giờ, trong đó có hệ thống pháp luật và chế độ đào tạo chức danh tư pháp.
Trong thời kỳ đầu, từ năm 1886 đến 1922, việc đào tạo thẩm phán và kiểm sát viên được đào tạo theo chương trình riêng, đào tạo luật sư được đào tạo theo chương trình riêng. Việc thi tuyển những chức danh này cũng được tổ chức theo những chương trình riêng.
Từ năm 1923 đến năm 1946, Nhật Bản bắt đầu tổ chức kỳ thi chung cho các chức danh tư pháp. Tuy nhiên, chỉ có kỳ thi là được tổ chức chung, còn sau đó, các thẩm phán và kiểm sát viên tương lai được đào tạo chương trình riêng, học viên luật sư được đào tạo chương trình riêng.
Từ năm 1947 đến nay, các chức danh này không chỉ dự kỳ thi tư pháp quốc gia mà còn được đào tạo một chương trình chung giống nhau. Đây là kết quả quá trình nước Nhật nhận thức rằng để nâng cao chất lượng tư pháp, phải nâng cao một cách đồng đều chất lượng của tất cả các chức danh tư pháp mà không phải chỉ là thẩm phán hay kiểm sát viên.
1.3. Kỳ thi tư pháp quốc gia được tổ chức mỗi năm một lần, do Uỷ ban quản lý kỳ thi tư pháp của Bộ Tư pháp thực hiện. Đây cũng là một điểm đặc sắc trong việc tổ chức đào tạo các chức danh tư pháp ở Nhật Bản. Bởi lẽ Học Viện tư pháp thuộc Toà án tối cao, nhưng tổ chức thi tuyển lại do Bộ tư pháp thực hiện (theo chế độ tam quyền phân lập, Tòa án là cơ quan tư pháp, trong khi đó, Bộ Tư pháp lại thuộc cơ quan hành pháp). Những người Nhật hiện đại giải thích: quy định này có lẽ nhằm tạo một cơ chế kiểm soát chất lượng giữa các cơ quan khác nhau.
Để có thể tham gia kỳ thi tư pháp quốc gia, người dự thi cần nộp đơn. Đây là điều kiện duy nhất của người dự tuyển. Không có điều kiện nào khác, thậm chí không giới hạn về độ tuổi cũng như bằng cấp chuyên môn. Lịch sử thi tuyển các chức danh tư pháp cũng đã ghi nhận một thí sinh 12 tuổi thi đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia. Thậm chí, người có tiền án, tiền sự cũng có quyền tham gia kỳ thi tư pháp, dĩ nhiên là phải có mặt để dự thi. Bất kể ai cho rằng mình có thể thi đậu kỳ thi tư pháp quốc gia đều có quyền dự thi.
Việc không hạn chế điều kiện dự thi kỳ thi tư pháp quốc gia xuất phát từ quan điểm: nước Nhật cần người tài thực sự để có thể thực hiện tốt quyền tư pháp. Mà người tài thì có thể do được đào tạo, học hành, nhưng có thể là bằng con đường tự học, tự trưởng thành của người đó.
Thực tế, kỳ thi tư pháp quốc gia là một kỳ thi quá khó khăn (nhiều học viên tư pháp phải dự tới hơn 10 kỳ thi tư pháp quốc gia mới trúng tuyển), nên phần lớn thí sinh dự tuyển (nếu không nói là tất cả), đều có bằng cử nhân (có thể là cử nhân luật hay cử nhân một chuyên ngành khác). Người không có bằng cử nhân tham gia kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ chiếm một số lượng rất ít (vài người trong một năm).
Dẫu sao, việc quy định điều kiện dự thi tư pháp quốc gia như hiện tại đã làm cho việc học đại học luật ở Nhật bản, xét về lý thuyết gần như chẳng cần thiết và không có ý nghĩa. Thực tế, ở Nhật bản đã có rất nhiều những cơ sở luyện thi cho kỳ thi tư pháp. dĩ nhiên, ở đây, người ta chỉ chú trọng ôn luyện kỹ thuật thi cử, chứ không dạy luật.
Hiện tại, người Nhật cũng nhận thấy sự bất hợp lý và thiếu khoa học trong cơ chế thi tuyển tư pháp. Mặt khác, để chương trình đào tạo Đại học luật và đào tạo các chứ danh tư pháp gắn kết với nhau, bắt đầu từ 2006, nước Nhật bắt đầu áp dụng điều kiện dự thi bắt buộc người dự thi phải có bằng cao học luật. Để có bằng cao học luật (thời gian học 2 năm), cần có bằng đại học luật hay một bằng đại học khác. Thực hiện kế hoạch cải cách này, bắt đầu từ tháng 4 năm 2004, nước Nhật sẽ có những Law School (trường luật) đầu tiên đào tạo cao học luật. Hai năm sau, năm 2006, nước Nhật sẽ có những Master luật đầu tiên dự kỳ thi tư pháp quốc gia. Bên cạnh đó, chế độ dự thi cũ vẫn tiếp tục được duy trì trong khoảng 5 năm, cho đến khi điều kiện dự thi mới có thể được áp dụng triệt để.
1.4. Kỳ thi tư pháp quốc gia có nhiều vòng thi, diễn ra gần như hết năm, do vậy để có khoá học viên tư pháp, kỳ thi tư pháp phải được tổ chức từ năm trước.
Vòng thi sơ khảo kiểm tra kiến thức pháp luật cơ bản là vòng thi đầu tiên dành cho những người không có bằng cử nhân. Hàng năm, kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ có một vài thí sinh là phải dự tuyển vòng sơ khảo.
Vòng thi chính bao gồm:
1.4.1. Thi trắc nghiệm: có ba môn thi là Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hình sự. Mỗi bài thi phải làm trong khoảng 3h đồng hồ. Kỳ thi thường được tổ chức vào ngày chủ nhật và thứ hai của tháng 5 trong năm.
Tỷ lệ thí sinh trượt vòng thi trắc nghiệm là rất lớn:
năm 2002 có 41.500 thí sinh đỗ 6.500 thí sinh
năm 2003 có 45.342 thí sinh đỗ 6.986 thí sinh
1.4.2. Thi viết bài luận: vòng này có năm môn thi gồm Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật thương mại, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hình sự. Mỗi môn phải viết hai bài.
Kỳ thi viết được tổ chức vào trung tuần tháng 7 hàng năm, thường trong các ngày từ ngày 17 đến ngày 20.
Tỷ lệ thí sinh qua vòng thi này như sau:
năm 2002 có 6.500 thí sinh đỗ 1.244 thí sinh
năm 2003 có 6.986 thí sinh đỗ 1.201 thí sinh
1.4.3. Thi vấn đáp là kỳ thi cuối cùng. Các môn thi vấn đáp cũng gồm 5 môn thi giống như kỳ thi viết. Mỗi môn có hai giám khảo.
Do các vòng thi đầu rất khó khăn, nên những thí sinh vào đến vòng thi vấn đáp đều là những thí sinh rất xuất sắc. Tỷ lệ người trượt ở vòng thi này rất ít:
năm 2002 có 1.244 thí sinh đỗ 1.183 thí sinh
năm 2003 có 1.201 thí sinh đỗ 1.170 thí sinh
Người thi trượt ở vòng thi vấn đáp có quyền chỉ phải thi lại vòng thi này (vấn đáp) vào kỳ thi tư pháp của năm tiếp theo, dĩ nhiên là người này vẫn có nguyện vọng tiếp tục dự thi tư pháp.
Người thi trượt ở các vòng thi khác thì phải tham gia lại toàn bộ các vòng thi từ đầu. Không có hạn chế nào cho số lần dự thi kỳ thi tư pháp quốc gia. Việc một người phải qua 8 đến 10 kỳ thi tư pháp quốc gia mới trúng tuyển không phải là chuyện hiếm ở Nhật Bản.
Trong chương trình đổi mới đào tạo tư pháp tại Nhật bản, áp dụng từ 2006, kỳ thi tư pháp quốc gia chỉ có một vòng thi, gồm thi trắc nghiệm và thi vấn đáp được tổ chức một lần.
Thường thì người trúng tuyển sẽ tham gia ngay khoá đào tạo của học viện tư pháp. Nhưng cũng có người nhiều năm sau mới tham gia khoá học. Có người sau khi nghỉ hưu mới bắt đầu tham gia khoá học. Nghĩa là kết quả của kỳ thi tư pháp quốc gia có giá trị bảo lưu suốt đời.
1.5. Học viện tư pháp thuộc Toà án tối cao Nhật Bản thực hiện thời gian đào tạo cho một khóa là 18 tháng, phân bổ như sau:
3 THÁNG HỌC TẠI TRƯỜNG
12 THÁNG THỰC TẬP
3 THÁNG HỌC TẠI TRƯỜNG
THI TỐT NGHIỆP
3 tháng thực tập xét xử hình sự
3 tháng thực tập kiểm sát
3 tháng thực tập luật sư
3 tháng thực tập xét xử dân sự
Đặc điểm chung của chương trình đào tạo là đây là một chương trình đào tạo chung. Trong suốt quá trình học, học viên sẽ chưa biết mình sau khi tốt nghiệp, sẽ là thẩm phán, luật sư hay kiểm sát viên. Tất cả các kỹ năng của cả ba chức danh này đều được học như sau. Quy định này xuất phát từ quan niệm cho rằng, để nền tư pháp phát triển, trình độ và năng lực của ba chức danh tư pháp là thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải đồngđều, phải được đào tạo trong một điều kiện như nhau.
Một điểm nữa là học viên học viên tư pháp được nhận lương từ Nhà nước. Nước Nhật quan niệm đây là những người sẽ góp phần bảo vệ nền công lý, bảo vệ sự ổn định của xã hội, sự phát triển của đất nước, vì vậy những học viên của Học viên tư pháp được coi là những công chức dự bị và họ được hưởng mức lương của công chức dự bị.
Tất nhiên, một bộ phận người Nhật không hài lòng với chế độ lương bổng của học viên Học viện tư pháp. Những người này cho rằng, đối với những người sẽ trở thành thẩm phán và kiểm sát viên thì có thể được hưởng lương trong thời gian đào tạo, nhưng những người sẽ là luật sư sẽ hành nghề tự do, họ kiếm tiền cho bản thân họ thì xã hội không thể trả tiền cho việc đào tạo họ. Nhưng đại bộ phận người dân Nhật thì vẫn cho rằng mặc dù luật sư là một nghề tự do, nhưng đó là một nghề đặc biệt, vì mục tiêu của nghề này không phải là lợi nhuận mà là các lợi ích công, đảm bảo cho nền công lý được thực thi. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại, nước Nhật vẫn trả lương cho tất cả các học viên tư pháp và người ta sử dụng khái niệm “công chức dự bị” để chỉ các học viên tư pháp.
Chỉ đến khi tốt nghiệp, căn cứ vào kết quả học tập, học viên của Học viện tư pháp mới xác định được nghề nghiệp của mình. Khoảng trên dưới 100 học viên của mỗi khóa đào tạo có thành tích học tập cao nhất sẽ được lựa chọn về Toà án và sẽ trở thành thẩm phán thông qua thủ tục bổ nhiệm. Một số lượng cũng tương tự sẽ trở thành kiểm sát viên. Các số lượng này tương đối ổn định, ít có biến động lớn qua các năm, căn cứ vào số thẩm phán, kiểm sát viên nghỉ hưu hàng năm.
Để lựa chọn được số lượng người trở thành thẩm phán, kiểm sát viên, ngoài việc căn cứ vào thành tích học tập, còn phải căn cứ vào chính nguyện vọng của người được lựa chọn và họ phải qua một kỳ phỏng vấn trước khi chính thức có quyết định tiếp nhận.
Số còn lại sẽ hành nghề luật sư. Với số lượng người học, hàng năm Học viện Tư pháp Nhật Bản cung cấp hàng nghìn luật sư cho xã hội. Đến thời điểm hiện tại, nhu cầu của nước Nhật về luật sư vẫn chưa có dấu hiệu bão hòa. Hàng năm, nước Nhật vẫn cần hơn một nghìn người cho cả ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và luật sư.
Dù đối tượng đầu vào, thời gian đào tạo có những thay đổi nhất định nhưng một điều không hề thay đổi, tính từ gần một trăm năm nay, ba chức danh Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư được đào tạo chung trong một hệ thống đào tạo.
6. Những kinh nghiệm và kết luận
Qua nghiên cứu đào tạo luật sư ở một số nước trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm và kết luận sau:
– Việc giảm bớt tính hàn lâm và đưa các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy các môn luật, việc mời các luật sư và thẩm phán có uy tín đến giảng bài, việc tăng tỷ lệ các câu hỏi về thực tiễn pháp luật là xu hướng tất yếu trong đào tạo để cấp bằng cử nhân luật. Học viện Tư pháp – cơ sở đào tạo nghề luật sư duy nhất của Việt nam hiện nay đã vận dụng những kinh nghiệm trên vào chương trình đào tạo luật sư. Vì đặc điểm của Việt nam là các học viên phải qua đào tạo luật và có bằng cử nhân luật mới được thi vào các khoá đào tạo luật sư nên Học viện đã chú trọng nhiều đến việc rèn luyện các kỹ năng hành nghề và giảm việc truyền đạt kiến thức lý thuyết đơn chiều cho học viên. Các bài giảng về chuyên đề pháp luật chỉ chiếm khoảng 20% chương trình với nội dung giảng các vấn đề mới trong pháp luật và các kiến thức chuyên sâu. Các bài giảng vụ việc, phân tích và xử lý các tình huống chiếm khoảng 50% chương trình. Học viện đã đưa vào giảng dạy nhiều phương pháp hiện đại như song giảng, giải quyết tình huống cụ thể, diễn án. Phương pháp song giảng với hai giảng viên cùng lên lớp, một giảng viên lý thuyết và một giảng viên thực hành (các luật sư có nhiều kinh nghiệm đang hành nghề) giúp học viện tiếp cận nội dung bài giảng trên nhiều khía cạnh, cả về lý luận và thực tiễn. Việc sử dụng phương pháp song giảng rất phù hợp đối với giảng dạy kỹ năng cho học viên, đặc biệt là các kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa, nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị luận cứ bào chữa, tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên Tòa trong xu thế mở rộng tranh tụng hiện nay. Phương pháp giải quyết tình huống cũng là một phương pháp đặc thù phù hợp với việc giảng dạy các kỹ năng tranh tụng. Dựa trên các hồ sơ tình huống cụ thể giảng viên hướng dẫn cho các học viên về cách xử lý tình huống. Bằng phương pháp này các học viên được thực hành phần kỹ năng đã học ngay tại các tình huống cụ thể trên lớp. Các tình huống được sử dụng vào giảng dạy là các hồ sơ vụ án do các Tòa án đã xét xử hay các văn phòng luật cung cấp và được Học viện biên tập lại. Phương pháp diễn án là tổ chức một phiên Tòa ngay trên lớp, các học viên sẽ được tham gia với tư cách luật sư trong một không khí tranh tụng thực sự trong các phiên tòa giả định. Học viên Học viện đã tổ chức các buổi diễn án với sự tham gia của cả ba đối tượng đào tạo: Thẩm phán, Kiểm sát viên và luật sư trong cùng một phiên tòa. Qua các bài học này học viên được trực tiếp thực hành kỹ năng xét xử, buộc tội hay gỡ tội.
– Mô hình đào tạo luật ở Mỹ và Đức cho thấy: Cần chú trọng đào tạo luật sư ngay ở trường đại học, đặc biệt về phương pháp đào tạo để ngay từ trên ghế nhà trường, sinh viên luật đã được rèn luyện tư duy của luật sư. Đây là một trong những luận cứ để đề xuất việc đào tạo cử nhân luật làm tiền đề để đào tạo luật sư ở Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp. Học viện Tư pháp – “Trung tâm lớn đào tạo cán bộ tư pháp”[15] sẽ xây dựng nguyên lý và công nghệ đào tạo cử nhân của riêng mình[16] làm tiền đề để đào tạo luật sư ở bước tiếp theo, đáp ứng nhu cầu của cải cách tư pháp và quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
– Tiền lệ đào tạo luật sư tranh tụng qua các bữa ăn trưa ở Inn of Court của Anh có thể là gợi ý để đa dạng hoá hoạt động đào tạo, tổ chức các cuộc gặp thân mật giữa các thẩm phán, luật sư có uy tín để truyền đạt kinh nghiệm cho các sinh viên, học viên và luật sư tập sự trong đào tạo luật sư ở Việt Nam. Tại Học viện Tư pháp sau mỗi giờ học tình huống, để kết thúc một bài học và chuyển sang bài khác nhà trường đều tổ chức các buổi đàm thoại giữa các học viên với các luật sư có nhiều kinh nghiệm để học viên có điều kiện tìm hiểu ở các luật sư về các vấn đề xung quanh bài học. Các buổi đàm thoại được diễn ra trong không khí cởi mở và học viên có cơ hội để giải đáp tất cả các vấn đề còn băn khoăn trong bài học.
– Trong thời gian thực tập, việc sinh viên luật ở Đức và luật sư tập sự ở Pháp được làm quen với các vụ việc thuộc nhiều lĩnh vực, từ dân sự, hình sự đến hành chính ở nhiều môi trường khác nhau như: tòa án cấp quận hay tòa án cấp cao, cơ quan công tố, hội đồng địa phương bốn tháng và tập sự cùng với một luật sư thực thụ cũng là một gợi ý cho việc đào tạo luật sư ở Việt Nam. Ở một góc độ nào đó, việc luật sư được thực tập ở nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều môi trường khác nhau sẽ giúp luật sư tương lai có kiến thức và kỹ năng tổng hợp, đồng thời xây dựng được những mối quan hệ cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp.
– Xu hướng của nhiều luật sư Đức hoạt động chuyên sâu trong một lĩnh vực pháp luật trong điều kiện số luật sư ngày càng nhiều, sự cạnh tranh trong nghề luật sư ngày càng gay gắt là gợi ý cho việc đào tạo các luật sư chuyên ngành ở Việt Nam, đặc biệt trong xu thế hội nhập. Hiện nay Học viện tư pháp chưa có chương trình đào tạo luật sư chuyên sâu nhưng thay vào đó Khoa đào tạo luật sư đã mở các lớp bồi dưỡng kiến thức cho luật sư hội nhập với các chuyên đề về nội dung cơ bản của WTO trong thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, về các nội dung cơ bản của các hiệp định thương mại khu vực, về kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Việc đào tạo dưới hình thức các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cần được tăng cường hơn nữa cùng với việc nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng lĩnh vực đào tạo và thời gian đào tạo.
– Kinh nghiệm đào tạo luật ở Đức cho thấy: Việc đánh giá kết quả học tập qua các kỳ thi với trách nhiệm giám sát, quản lý, đánh giá kỳ thi, thậm chí cả việc ra câu hỏi thi của Bộ Tư pháp là đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện thực tế Việt nam hiện nay, các học viên dự thi vào khoá đào tạo luật sư được đào tạo chương trình cử nhân luật ở các cơ sở đào tạo khác nhau và theo nhiều hệ đào tạo khác nhau như hệ đào tạo chuyên tu, hệ đào tạo văn bằng hai, hệ đào tạo tại chức…vv dẫn đến chất lượng của các học viên không đồng đều. Việc tổ chức kỳ thi đầu vào dưới sự giám sát của Bộ Tư pháp nhằm mục đích lựa chọn các học viên có mặt bằng trình độ nhất định để tiếp tục đào tạo nghề luật sư là đúng đắn và cần thiết, phù hợp tinh thần chỉ đạo không chỉ chú trọng về số lượng đào tạo mà còn chú trọng về chất lượng đào tạo.
– Kinh nghiệm đào tạo luật sư trong các chương trình giáo dục thường xuyên ở Mỹ cho thấy: Cần chú trọng đào tạo luật sư ngay cả sau khi đã cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập Đoàn luật sư. Ở Việt Nam, việc bồi dưỡng kiến thức sau khi được cấp chứng chỉ đào tạo kỹ năng hành nghề Luật sư có thể được thực hiện tại các Đoàn luật sư kết hợp với việc chỉ đạo của Bộ Tư pháp và việc đảm bảo chương trình giảng dạy của Học viện Tư pháp. Sau khi đã được tiếp thu các kiến thức cần thiết để hành nghề luật sư tại Học viên tư pháp (chương trình đào tạo của Học viện Tư pháp được Bộ tư pháp phê chuẩn), các Đoàn luật sư tại các tỉnh có thể tuỳ theo đặc điểm cụ thể của tỉnh, thành phố mình tiếp tục đào tạo thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cho các luật sư của mình.
– Quản lý luật sư hiện nay trên thế giới có 3 mô hình: Mô hình thứ nhất là Nhà nước quản lý (ví dụ như ở các nước Ả rập Xê út), mô hình thứ hai là Nhà nước và tổ chức xã hội cùng quản lý (ví dụ như Trung quốc, Singapore), mô hình thứ ba là tổ chức xã hội quản lý (ví dụ Úc, Anh, Mỹ, Nhật). Việc giao cho các tổ chức xã hội quản lý luật sư hay Nhà nước nắm giữ quản lý dựa trên cơ sở của các điều kiện về kinh tế xã hội, văn hoá, dựa trên sự phát triển của luật sư tại các nước này. Việc quản lý luật sư được giao cho Hiệp Hội Luật sư hay Đoàn Luật sư là các tổ chức Xã hội được thực hiện hầu hết ở các nước có nền kinh tế xã hội phát triển, đồng thời nghề luật sư cũng phát triển như Anh, Úc, Mỹ, Nhật[17]. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam việc quản lý luật sư do Nhà nước và tổ chức Xã hội cùng phối hợp là hết sức hợp lý. Việc đào tạo Luật sư phải được thực hiện trong một môi trường đào tạo đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đúng như Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay của Việt nam, dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp.
[1] Chương trình đào tạo luật của Pháp bao gồm: sau 3 năm học Luật có bằng Licencier, học thêm một năm nữa có bằng Maitrise – tương đương với trình độ cử nhân trong hệ thống giáo dục Việt Nam, thêm một năm nữa có bằng DEA – có thể tương đương với bằng Master ở các nước Common Law, học thêm 2-3 năm nữa có bằng Doctorat (Tiến sỹ)
[2] Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề luật sư, Hà Nội, 2002, tr.31-34.
[3] Trong số học viên học nghề luật sư tư vấn chỉ có 75% có bằng cử nhân luật, 15 % có bằng cử nhân và 10% thậm chí chưa có bằng cử nhân. Trước đây khoảng 13% luật sư tranh tụng chưa có bằng cử nhân nhưng hiện nay các Inns of Court chỉ nhận học viên (bar – student) với bằng cử nhân, không nhất thiết phải là cử nhân luật (К. Цвайгерг, Х. Кетч, Введение в сравнительное правоведение в сфере частного права, Том 1, Москва, 2000, c. 325 (Zweigert Kotz, Nhập môn Luật so sánh trong lĩnh vực luật tư, Tập 1, Moscow 2000, tr. 325)
[4] Trong vụ John v. Uỷ ban than quốc gia (năm 1955), Toà phúc thẩm đã yêu cầu xét xử lại với lý do thẩm phán xử sơ thẩm đã hỏi quá nhiều khiến các bên không thể xuất trình chứng cớ một cách tốt nhất.
[5] Vào thế kỷ 19, các Inn of Court thành lập Bar (Đoàn luật sư). Hiện tại ở Anh có 4 Inn of Court là Lincol’s Inn, Inter Temple, Middle Temple và Gray’s Inn.
[6] Романов А. К., Правая система Англии, Москва, 2002, стр. 284 – 292 (Romanov A.K., Hệ thống pháp luật Anh, Moscow, 2002, tr. 284-292)
[7] Robert W. Gordon, Giáo dục pháp luật ở Hoa Kỳ, Nguồn gốc và quá trình phát triển
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/gordon.htm
[8] Lê Thu Hà, Chế độ đào tạo luật gia tại Hoa Kỳ, Nghiên cứu Lập pháp, Số 2, 2005, tr.72-76
[9] John A. Serbert, Hội Luật gia và giáo dục pháp luật ở Mỹ
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/ serbert.htm
[10] Macarena Tamayo Calabrese, Giáo dục pháp luật thường xuyên ở Mỹ
http:// usinfo.state.gov/journals/itdhr/0802/ijde/calabrese.htm
[11] А. Жалинский, А. Рерихт, Введение в немецкое право, Москва, 2001, c. 80-112 ( A. Zalinskyi, A. Rohricht, Nhập môn luật Đức, Moscow, 2001, tr. 80-112)
[12] Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề luật sư, Hà Nội, 2002, tr. 39-41
[13] Nguyễn Văn Nam, Đào tạo luật và nghề luật ở Đức, Nghiên cứu Lập pháp, Số 8, 2005, tr.57-60
[14] Mục 1 sử dụng tư liệu của các giảng viên Nhật Bản, thuộc chương trình COOPERATION IN THE LEGAL AND JUDICIAL FIELD VIETNAM: PHASE III, PART I “Strengthening Vietnamese Judicial Training Institutions”, tổ chức từ 2/2/2004 đến 5/3/2004 tại Nhật bản)
[15] Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị BCH TW ĐCS VN về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
[16]Phan Hữu Thư, Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ cải cách tư pháp trong những năm qua, Tạp chí Nghề Luật, Số 1, 2006, tr. 6-15
[17]. Tuy nền văn hóa Nhật bản chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo Khổng, nhưng Nhật bản cũng được đánh giá là một nước có đội ngũ luật sư có trình độ chuyên môn và khả năng hành nghề rất cao. Việc đào tạo luật sư được trường đào tạo các chức danh tư pháp của Nhật đảm nhận. Kỳ thi vào trường này là một rào cản lớn đối với những ai muốn làm nghề luật sư. Mỗi năm trường chỉ lấy 1000 học viên cho cả ba chức danh tư pháp trên cả nước Nhật. Thông thường các thí sinh phải thi đến lần thứ 5 hay 6 mới đỗ. Thời gian đào tạo là 12 tháng cho cả chức danh Thẩm phán và Luật sư, chương trình đào tạo và toàn bộ các giáo trình do Viện nghiên cứu Pháp vụ trực thuộc Bộ tư pháp Nhật kiểm duyệt một cách chặt chẽ.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 3 NĂM 2006
Cho mình xin file word bài này với ạ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top