daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Phần mở đầu
Nâng cao chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu của ngành giáo dục nói chung và của các
trường phổ thông nói riêng, trong đó có hệ thống trường chuyên, lớp chọn trên cả nước. Chất
lượng giáo dục là những yếu tố tạo nên giá trị của sản phẩm giáo dục, đó là năng lực và nhân
cách người học. chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực thúc đấy sự phát
triển của đất nước, của địa phương.
Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, rất cần nguồn
nhân lực chất lượng cao, nơi cung cấp nguồn nhân lực này, đầu tiên phải kể đến hệ thống các
trường chuyên – lớp chọn. Bởi vậy Đảng, nhà nước và ngành giáo dục rất quan tâm đến việc
mở hệ thống các trường chuyên trên khắp cả nước. Có thể nói, trường chuyên – lớp chọn ở các
địa phương là nơi cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt thông qua các kì thi chọ học sinh giỏi quốc gia hàng năm đã
lựa chọn được rất nhiều nhân tài cho đất nước, trong đó có bộ môn lịch sử.
Từ năm học 1996 -1997, Bộ giáo dục & đào tạo đã cho phép môn lịch sử tổ chức thi chọn
học sinh giỏi cấp quốc gia, nhầm cung cấp nhân tài cho các chuyên nghành thuộc các môn
khoa học xã hội.Hơn mười năm qua, số học sinh đạt giải quốc gia môn lịch sử không ngừng
tăng lên, trong đó có nhiều học sinh đạt giải cao. Từ kết quả thi hàng năm cho thấy, số học sinh
đạt giải cao (nhất, nhì), tập trung chủ yếu ở các trường chuyên thuộc các tỉnh Đồng bằng Bắc

Bộ, còn các tỉnh miền núi số lượng giải ít, chất lượng chưa cao, sự chênh lệch này có nhiều
nguyên nhân, tuy nhiên theo chúng tôi, xuất phát từ mấy vấn đề sau đây:
Thứ nhất, từ chất lượng đầu vào của học sinh, đối với các môn khoa học tự nhiên dễ tuyển
chọn học sinh bao nhiêu, ngược lại các môn khoa học xã hội lại rất khó khăn, đặc biệt với môn
lịch sử lại càng khó tuyển chọn học sinh vào lớp chuyên sử, bởi lẽ do nhu cầu việc làm và xu
hướng chọn nghề hiện nay, các bậc phụ huynh - học sinh rất ít chọn chuyên nghành khoa học
xã hội, nên các em học sinh không chọn chuyên sử là điều dễ hiểu.
Thứ hai, do điều kiện sống (hoàn cảnh kinh tế của gia đình, truyền thống hiếu học của của
dòng họ, quê hương…), cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nhận thức, độ nhạy bén của

1


học sinh giữa các vùng cũng khác nhau. Với các em được sinh ra ở vùng đồng bằng, nơi có
điều kiện kinh tế, truyền thống hiếu học lâu đời sẽ hơn hẳn các em ở vùng núi nơi còn nhiều
khó khăn về kinh tế và điều kiện sống.
Thứ ba, cơ sở vật chất nhà trường, chất lượng giáo viên cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa
các vùng miền, nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng giải. ngoài ra còn một
thực tế, ở một số trường miền núi và trường đặc thù như trường PT Vùng cao Việt Bắc không
có lớp chuyên sử mà chỉ là nhóm chuyên nên việc lựa chọn đội tuyển và chất lượng đội tuyển
cũng rất hạn chế. Từ thực tiễn trên đây, đặt ra yêu cầu cấp thiết là cần rút ngắn khoảng cách
chất lượng đội tuyển học sinh giỏi môn lịch sử giữa vùng đồng bằng và miền núi.
Hội các trường THPT Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ ra đời và hoạt
động đã gần một thập kỉ (7 năm), hàng năm có tổ chức các buổi hội thảo chuyên môn để chuẩn
bị tốt cho kì thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia các môn trong đó có môn lịch sử. Tuy nhiên
môn sử trường PT Vùng cao Việt Bắc mới tham gia 2 mùa thi, rất muốn được giao lưu học hỏi
các trường bạn để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đội tuyển học sinh. Do đó chúng
tui lựa chọn chuyên đề “Quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến năm 2000” để tham gia Hội thảo.
Mục đích chúng tui chọn chuyên đề “Quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến năm 2000” tham dự
Hội thảo là vì: đây là chuyên đề, quan trọng trong chương trình ôn và thi học sinh giỏi cấp
quốc gia hàng năm. Thực tiễn ôn luyện đội tuyển quốc gia nhiều năm chúng tui thấy, khả năng
nhận thức và cảm thụ của học sinh về chuyên đề này còn nhiều hạn chế (nhận định, đánh giá,
liên hệ thực tiễn tình hình thế giới hiện nay).
Thông thường, trong quá trình dạy – học chương “Quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến năm 2000”, giáo viên vẫn soạn giảng theo hình thức “bổ ngang vấn đề” như
nội dung sách giáo khoa. Cánh tiếp cận kiến thức như vậy sẽ giúp cho học sinh hiểu các vấn đề
tường tận, cụ thể, phù hợp với đối tượng học sinh đại trà, còn với đội tuyển học sinh giỏi rất dễ
gây cho các em nhàm chán, không phát huy được tính chủ động sáng tạo, cho nên việc thay đổi
cách tiếp cận nội dung “Quan hệ quốc tế 1945 -2000) là cần thiết. Chúng tui lựa chọn cách tiếp
cận mới khi giảng dạy chuyên đề theo hình thức “Bổ dọc” bằng cách khái quát từng nội dung.
Cách tiếp cận này sẽ giúp cho học sinh có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc về toàn cảnh thế giới
(1945 – 2000)
Thông qua chuyên đề này sẽ cung cấp nguồn tài liệu và phương pháp ôn tập tốt nhất cho
học sinh đội tuyển quốc gia, góp phần nâng cao chất lượng đội tuyển, đồng thời tạo điều

2


kiệncho đội ngũ giáo viên ôn luyện học sinh giỏi được giao lưu học hỏi kinh nghiệm các
trường THPT chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ.

Phần nội dung
Quan hệ quốc tế từ 1945 đến năm 2000
A.Kiến thức cơ bản học sinh cần nắm
Trong chuyên đề này chúng tui giúp học sinh tếp cận quan hệ quốc tế dựa trên sự kiện, hiện tượng
lịch sử diễn ra từ năm 1945 đến năm 2000. Do vậy quan hệ quốc tế được tạo ra từ sau Hội nghị
Ianta là sự hình thành trật tự hai cực do Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, đó là nhân tố chủ yếu
chi phối các mối quan hệ quốc tế và nền chính trị thế gới từ sau chiến tranh. Chuyên đề chia hai
phần như sau:
I. Quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến Nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX
1.Sự hình thành trật tự hai cực Ianta
1.1. Tình hình thế giới sau chiến tranh
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã dẫn tới những chuyển biến căn bản của tình hình quốc tế.
Chiến tranh đã làm thay đổi hoàn toàn so sánh lực lượng trên phạm vi thế giới. Cụ thể là: châu Âu
với địa vị trung tâm của thế giới tư bản nay đã bị suy yếu nghiêm trọng. Các nước đứng đầu như
Anh, Pháp dù là nước thắng trận nhưng không thể mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình như sau
chiến tranh thế giới I. Các nước phát xít, kẻ thù chung của nhân loại đã bị tiêu diệt và hoàn toàn
kiệt quệ. Châu Âu tách thành hai khối Đông và Tây. Nước Mĩ đã vươn lên hết sức nhanh chóng
nhờ những mánh khóe, buôn bán vũ khí, trở thành một siêu cường khống chế toàn bộ thế giới tư
bản chủ nghĩa. Các nước Tây Âu và Nhật bản đều phải dựa vào sự giúp đỡ của Mĩ để phục hồi
kinh tế. Đây là cơ hội có một không hai để Mĩ vươn lên nắm quyền lãnh đạo trong hệ thống các
nước tư bản chủ nghĩa và thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới.
Với chiến thắng vĩ đại của Liên Xô trong sự nghiệp tiêu diệt chủ nghĩa phát xít đã dẫn tới sự thay
đổi về so sánh lực lượng có lợi cho Liên Xô và các lực lượng cách mạng trên thế giới. Sự nỗ lực,
lao động sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Liên Xô trong thời kì sau chiến tranh đã giúp Liên Xô
vươn lên thành một cường quốc, một nhân tố không thể thiếu trong việc giải quyết các vấn đề quốc
tế. Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành hệ thống thế giới. Đồng thời,
phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ, lan rộng khắp các châu Á, Phi, Mĩla-tinh, đã phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

3


Trong bối cảnh đó, mặt trận Đồng minh chống phát xít, hình thành trong chiến tranh, đứng trước
nguy cơ tan rã. Những mâu thuẫn trong nội bộ lực lượng chống phát xít ngày càng bộc lộ công
khai. Ngay khi chiến tranh chuẩn bị kết thúc, Mĩ đã nhìn nhân Liên Xô như một lực lượng cản trở
âm mưu làm bá chủ thế giới của mình, nên Mĩ bắt đầu triển khai chính sách kiềm chế Liên Xô.
1.2.Sự hình thành trật tự hai cực Ian ta
* Hoàn cảnh
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nhiều vấn đề quan trọng
và cấp bách đặt ra với các nước Đồng minh:
+ Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít.
+ Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh.
+ Phân chia thành quả chiến tranh giữa các nước thắng trận.
Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập ngày 4 đến ngày 11 – 2 – 1945 tại Ianta (Liên
Xô), với sự tham gia của các nguyên thủ ba cường quốc: Xtalin (Liên Xô); Rudơven (Mĩ); Sơcsin
(Anh). Thực chất nội dung hội nghị là sự tranh giành và phân chia thành quả thắng lợi của chiến
tranh giữa các lực lượng tham chiến, có tác động quyết định đến trật tự thế giới sau chiến tranh.
* Những thỏa thuận của Hội nghị Ianta
Hội nghị Ianta đã đưa ra những quyết định quan trọng:
+ Mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản để
nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Sau khi đánh bại phát xít Đức trong khoảng từ 2 đến 3 tháng,
Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật ở châu Á.
+ Thành lập tổ chức liên hợp quốc, nhầm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
+ Thỏa thuận việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh
hưởng ở châu Âu và châu Á.
. Châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông Béclin và các nước Đông Âu;
Quân đội Mĩ, Anh, Pháp chiếm miền Tây nước Đức và Tây Béclin, các nước Tây Âu.
. Châu Á: Giữ nguyên hiện trạng Mông Cổ; Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo Xakhalin và Liên Xô
chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Curin; Quân đội mĩ chiếm Nhật Bản; Triều Tiên: Liên Xô chiếm đóng
phía bắc vĩ tuyến 38 và Mĩ chiếm đóng Nam vĩ tuyến 38; Trung Quốc trở thành quốc gia thống nhất,
trả lại cho Trung Quốc Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ; Đông Dương: Quân đội Anh giải giáp quân
Nhật phía Nam vĩ tuyến 16, phía bắc vĩ tuyến 16, quân đội Trung Hoa dân quốc giải giáp quân Nhật.

4


Như vậy, những quyết định của Hội nghị Ianta (2/1945) đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới
mới, từng bước được thiết lập trong những năm 1945 đến 1947, thường được gọi là “trật tự hai cực
Ianta”.
1.3. Sự thành lập Liên hợp quốc
• Sự thành lập
Từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1945, hội nghị 50 nước họp tại Xan phranxicô (Mĩ)
đã tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc, thông qua hiến chương Liên hợp quốc và thành lập
tổ chức Liên hợp quốc. Hiến chương là văn kiện, nền tảng cơ bản xác định mục đích, nguyên tắc và
cách tổ chức hoạt động của Liên hợp quốc.
*Mục đích hoạt động
Duy trì nền hòa bình và an ninh thế giới, thúc đẩy sự phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước
thành viên trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của mỗi dân tộc.
- Để thực hiện các mục đích trên, Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau:
+ Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc.
+Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước.
+ không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào.
+ Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình.
+ Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa 5 nước lớn (Liên Xô, trung Quốc, Mĩ, Anh, Pháp).
*Tổ chức
Liên hợp quốc có 6 cơ quan chính là:
+ Đại hội đồng (đến 2006 có 192 thành viên) mỗi năm họp một lần để thảo luận các vấn đề thuộc
về Hiến chương.
+ Hội đồng Bảo an (cơ quan đầu não của Liên hợp quốc) giữ vai trò trọng yếu trong việc gìn giữ
hòa bình và an ninh thế giới. Mọi quyết định của Hội đồng bảo an phải được sự nhất trí của 5 ủy
viên thường trực là (Liên Xô) hiện nay là Nga, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc mới có giá trị.
+ Ban thư kí, cơ quan hành chính của Liên hợp quốc, đứng đầu là Tổng thư kí nhiệm kì 5 năm.
+ Hội đồng kinh tế và xã hội, nhiệm kì 3 năm, có 54 thành viên với nhiệm vụ nghiên cứu, báo cáo,
xúc tiến việc hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế,văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế…
+ Hội đồng quản thác, là cơ quan được Đại hội đồng ủy thác việc quản lí một số lãnh thổ nhằm tạo
điều kiện cho nhân dân các lãnh thổ đó có khả năng tự trị hay độc lập.

5


+ Tòa án quốc tế, nhiệm kì 9 năm, 15 thành viên, là cơ quan có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp
giữa các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Ngoài ra Liên hợp quốc còn hàng trăm tổ chức chuyên môn khác giúp việc… Trụ sở của Liên hợp
quốc đặt tại Niu Oóc (Mĩ).
*Vai trò của Liên hợp quốc
Trong gần 7 thập kí qua, Liên hợp quốc có vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề quốc
tế: gìn giữ hòa bình , an ninh thế giới.
+ Có đóng góp đáng kể vào lộ trình phi thực dân hóa thông qua Nghị quyết “phi thực dân hóa”
năm 1960, Nghị quyết xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc năm 1963.
+ Nỗ lực trong việc giải trừ quân bị: thông qua Nghị quyết cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1961., giải
quyết vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên, I Ran.
+ Góp phần giải quyết các vụ tranh chấp, xung đột quốc tế, xung đột khu vực: Cămpuchia, Đông timo, Trung đông, châu Phi.
+ Có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế, chính tri, văn hóa, xã hội
giữa các nước thành viên, trợ giúp các nước đang phát triển, thực hiện cứu trợ nhân đạo khi nước
thành viên gặp khó khăn.
*Việt Nam ra nhập Liên hợp quốc năm 1997 là thành viên thứ 149. năm 2007, Việt năm được bầu
làm ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an (nhiệm kì 2008 – 2009).
1.4. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập
* Những nhân tố dẫn đến sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập
- Về địa lý – chính trị
Thứ nhất, trái với những quyết định đã thỏa thuận tại Hội nghị Pôt-xđam là nước Đức phải trở
thành một quốc gia thống nhất,hòa bình, dân chủ cả về chính trị cũng như kinh tế, nhưng các nước
Anh, Mĩ, Pháp đã từng bước tiến hành riêng rẽ việc hợp nhất ba khu vực thuộc quyền chiếm đóng
của họ để lập ra nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức vào (9/1949). Để đối phó lại, tại khu vực
chiếm đóng của mình Liên Xô đã giúp các lực lượng dân chủ ở Đông Đức thành lập nhà nước
Cộng hòa Dân chủ Đức (10/1949).
Như vậy, trên lãnh thổ nước Đức đã xuất hiện và tồn tại hai nhà nước với hai chế độ chính trị
khác nhau, thuộc ảnh hưởng của hai siêu cường Mĩ và Liên Xô.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top