Teithi

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Như đã biết, nuôi con nuôi là chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia và trong pháp luật quốc tế. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định : “ Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm”. Việt Nam là một quốc gia thành viên của Công ước này đã luôn có chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em, luôn quan tâm đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là trẻ em không có mái ấm gia đình. Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con nuôi phải trước hết xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha mẹ và con cái.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
II.1. Nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Chế định nuôi con nuôi được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1959 đến nay xuất phát trước tiên vì lợi ích của người con nuôi. Việc nuôi con nuôi được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình có ý nghĩa góp phần bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đồng thời góp phân giải quyết một phần hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra trước đây. Do đó, tại Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về mục đích của việc nuôi con nuôi, theo đó:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội…
2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi.
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bốc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hay vì mục đích trục lợi khác.
Từ đó có thể thấy việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích của người con nuôi, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi của người nuôi. Để việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực, phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể các điều kiện để việc nhận nuôi con nuôi hợp pháp, cũng như về hậu quả pháp lý và thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi.
II.1.1. Điều kiện để việc nhận nuôi con nuôi hợp pháp.
II.1.1.1. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “ Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1.Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2.Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3.Có tư cách đạo đức tốt;
4.Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
5.Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hay bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác.; ngược đãi hay hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hay chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
Để đảm bảo cho người nhận nuôi con nuôi làm tốt chức năng làm cha, làm mẹ của mình, người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện liên quan đến năng lực hành vi, khoảng cách chênh lệch độ tuổi, tư cách đạo đức và các điều kiện thực tế khác để được nhân nuôi con nuôi.
• Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đáp ứng đủ hai điều kiện là từ đủ mười tám tuổi trở lên và không phải là người bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự. Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người nhận nuôi con nuôi là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 so Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này là cần thiết, nhằm bảo đảm cho người con nuôi có được một cuộc sống trọn vẹn, được chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu người nhận nuôi con nuôi không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ không thể tự nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của họ, họ không thể thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định nhận con nuôi, và trong suốt quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể bảo đảm cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được. Tuy nhiên, trong trường hợp người nuôi con nuôi là người già yếu cô đơn thì vấn đề năng lực hành vi dân sự không đặt ra đối với người nuôi mà trái lại người con nuôi, (tức là người nhận người già yếu cô đơn làm cha, mẹ nuôi) phải có năng lực hành vi đầy đủ .
• Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên:
Quy định này kế thừa Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, đây là điều kiện cần thiết cho cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng cách tuổi tác mới đảm bảo được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Đồng thời quy định này cũng nhằm tránh những trường hợp người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với người con nuôi. Nếu một người làm con nuôi của cả hai vợ chồng thì cả cha nuôi, mẹ nuôi đều phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Hầu hết pháp luật các nước đều quy định yêu cầu tuổi của người nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên, tuổi tối thiểu có thể được nhận nuôi con nuôi là khác nhau, tùy từng điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau của mỗi nước, mà đến một độ tuổi nào đó con người mới có được nhận thức về trách nhiệm làm cha, làm mẹ và kinh nghiệm tâm lý xã hội; có đủ khả năng tài chính để gánh vác trách nhiệm đó. Ngoài ra pháp luật các nước còn quy định độ tuổi chênh lệch giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi.
• Có tư cách đạo đức tốt, có điều kiện thực tế để bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
Đây là điều kiện hết sức quan trọng để bảo đảm cho người con nuôi, nhất là người con nuôi chưa thành niên, được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, được sống trong môi trường lành mạnh, thuận lợi cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Quy định này là điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Do trên thực tế, nhiều người nhận nuôi con nuôi đã không thực hiện trách nhiệm làm cha, làm mẹ mà có sự phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ, có hành vi ngược đãi con nuôi hay tạo không khí nặng nề trong gia đình, có trường hợp hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn không bảo đảm việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái. Người con nuôi đã không có một mái ấm gia đình thực sự, mục đích nhận con nuôi không bảo đảm.
Tuy vậy, trong trường hợp người già yếu cô đơn nhận con nuôi thì quy định này khó đảm bảo được, bởi chính họ là những người cần trông cậy, nương tự người được nhận làm con nuôi. Do đó, điều kiện này không áp dụng đối với trường hợp người già yếu, cô đơn nhận người trên 15 tuổi làm con nuôi.
Nhiều nước trên thế giới cũng quy định điều kiện người nhận nuôi con nuôi phải có đủ năng lực về tài chính, có nhân cách tốt, có sức khỏe tốt và quan hệ giữa bố mẹ nuôi phải thích hợp để nuôi dạy con nuôi (ở Thụy Sỹ và Trung Quốc). Một số nước còn quy định rằng, khi xem xét đơn xin công nhận việc nuôi con nuôi Tòa án có thể lấy ý kiến giám định về các điều kiện nói trên đối với người nhận nuôi con nuôi ( ở Thụy Sỹ và Gana), đối với việc nhận con nuôi nước ngoài, người muốn nhận con nuôi phải qua một khóa huấn luyện về nuôi con nuôi người nước ngoài ( Hà Lan).
Theo quy định tại khoản 5, Điều 69 có thể thấy những người mà có những hành vi đó thì không thể đủ tư cách đạo đức để nuôi dạy con nuôi, khi bản thân họ đã xâm hại đế những người thân thiết, máu mủ của họ thì không thể là tấm gương cho người con nuôi noi theo, không có gì đảm bảo rằng họ sẽ đối xử tốt với người được nhận làm con nuôi. Quyền định sẽ đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được sống trong một môi trường lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt về thể chất và nhân cách. Tuy nhiên thì vẫn có một số trường hợp ngoại lệ không đủ điều kiện nhưng vẫn được nhận con nuôi. Chẳng hạn, bố có con riêng trước khi lấy mẹ, người con riêng này chỉ kém mẹ 17 tuổi. Như vậy, nếu ba người chung sống với nhau thì không phát sinh quan hệ cha, mẹ, con mà chỉ là quan hệ về quyền và nghĩa vụ của bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng.
II.1.1.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.
Theo quy định tại Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “1. Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống.
Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hay làm con nuôi của người già yếu cô đơn.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hay của cả hai người là vợ chồng”.
*Việc quy định độ tuổi của người được nhận làm con nuôi từ mười lăm tuổi trở xuống là xuất phát từ cơ sở những người chưa thành niên từ mười lăm tuổi trở xuống là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Hơn nữa những người trên mười lăm tuổi thì mục đích của việc nhận nuôi con nuôi không còn nguyên giá trị.
Bên cạnh đó thì những người trên 15 tuổi vẫn được nhận làm con nuôi trong các trường hợp :
+ Người được nhận làm con nuôi là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự. Những người này nếu phát triển bình thường thì họ có thể tự chăm sóc cho cuộc sống của bản thân. Nhưng do hạn chế về thể chất hay tinh thần mà họ không thể đảm bảo cho cuộc sống của bản mình, và xét về bản chất thì những người này cũng gần giống với người từ 15 tuổi trở xuống, có thể thấy những người này thật sự cần một sự chăm sóc, giúp đỡ của mọi người.
+ Người trên 15 làm con nuôi cho người già yếu cô đơn. Điều này cũng xuất phát từ lợi ích của người nuôi con nuôi là nhằm chăm sóc, giúp đỡ người nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, người được nhận làm con nuôi, hay nói đúng hơn là người nhận cha mẹ nuôi là những người trên 15 tuổi, không những có đầy đủ khả năng để chăm lo cho chính mình mà con muốn mang lại sự chăm sóc, nuôi dưỡng người già yếu, cô đơn, giúp họ đỡ phần nào khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt và tình cảm.
* Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hay của cả hai người là vợ chồng.
Việc quy định như trên sẽ bảo đảm cho người con nuôi về nơi ăn, chốn ở, về sự hòa hợp trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục. Nếu một người làm con nuôi của nhiều người khác nhau thì sẽ khó có sự ổn định cho người con nuôi. Bên cạnh đó, nếu một người được nhận làm con nuôi của nhiều gia đình sẽ làm mất đi mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi, bởi lẽ trong trường hợp đó, người con nuôi đã được hưởng sự chăm sóc giáo dục, quan hệ con nuôi với một người khác nữa là điều không cần thiết.
II.1.1.3. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi.
Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “ 1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hay không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ.
2. Việc nhận trẻ em từ đủ chin tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó.”
Nếu cả cha mẹ đẻ của người con nuôi còn sống và đều có năng lực hành vi dân sự thì việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cả cha mẹ đẻ.
Nếu cha hay mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi đã chết, hay bị mất năng lực hành vi dân sự; hay chỉ xác định được một bên cha, mẹ đẻ thì chỉ cần sự đồng ý của người mẹ đẻ hay cha đẻ còn sống, có năng lực hành vi dân sự;
Nếu cả cha và mẹ đẻ đều đã chết; cha hay mẹ đẻ đã chết còn người kia mất năng lực hành vi dân sự; cả hai cùng mất năng lực hành vi dân sự; không xác định được cha mẹ đẻ là ai thì việc nhận con nuôi cần có sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. Sự đồng ý của cha, mẹ đẻ hay của người giám hộ trong tất cả các trường hợp trên phải được thể hiện bằng văn bản và dựa trên sự tự nguyện, không bị lừa dối cưỡng ép. Nếu có dấu hiệu lừa dối, cưỡng ép hay gian lận để đạt được sự đồng ý này sẽ bị coi là vô hiệu và việc nuôi con nuôi sẽ bị hủy.
Ngoài việc đáp ứng các yêu cầu của khoản 1 Điều 71 còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Quy định này đã thể hiện sự tôn trọng nguyện vọng của người được nhận làm con nuôi đã có sự nhận thức về môi trường sống và hệ quả của việc làm con nuôi, họ có quyền không đồng ý làm con nuôi nếu thấy không phù hợp với bản thân.
II.2. Các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trong việc bảo vệ quyền trẻ em.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp khí hóa lỏng Luận văn Kinh tế 1
D Pháp luật về xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ở Việt Nam Luận văn Luật 0
D Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 2
T pháp luật về đăng ký doanh nghiệp qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh bình thuận Luận văn Luật 1
D Pháp luật về hợp đồng và thực tiễn thực hiện hợp đồng xây dựng công trình thủy lợi tại công ty cổ phần xây dựng thủy lợi Hải Phòng Nông Lâm Thủy sản 0
H pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án kinh doanh bất động sản Luận văn Luật 0
D Pháp luật về quản lý chất thải y tế ở việt nam Y dược 0
D Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở Việt Nam hiện nay Luận văn Luật 0
D Pháp luật quốc tế về bảo vệ nguồn nước quốc tế và thực tiễn thực hiện của Việt Nam Luận văn Luật 0
D Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại điện tử đáp ứng nhu cầu của hiệp định thương mại tự do EVFTA Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top