nh0c_m4p132

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Phân tích sự hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan
I. Tính cấp thiết
Trước sự hội nhập của nền kinh tế, triển khai nền ngoại thương và các hoạt động đầu tư nước ngoài đang được đẩy mạnh đòi hỏi ngành Hải quan phải trở thành một tổ chức hiện đại, có thể đưa vào triển khai những hình thức quản lý, thực hiện công việc tốt nhất, đáp ứng được nhu cầu hợp pháp của doanh nghiệp và công chúng. Nhưng xuất phát điểm ngành Hải quan còn quá thấp so với các quốc gia trên thế do đó cấp thiết đòi hỏi sự hội nhập nhanh chóng của Hải quan Việt Nam để đáp ứng được nhu cầu nội tại của nền kinh tế.
Cụ thể hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc tham gia WTO, trở thành thành viên của tổ chức có tầm toàn cầu trong thương mại này đã ảnh hưởng lớn đến Hải quan Việt Nam với cam kết ràng buộc về thuế quan. Bên cạnh đó là các quy định về thuế nhập khẩu trong APEC, các vấn đề về thuế trong ASEAN yêu cầu một lộ trình cắt giảm thuế cụ thể và thuế nhập khẩu trong hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kì. Trước tất cả những tác động khách quan đó, thì sự hội nhập Hải quan Việt Nam là một điều tất yếu và cần thiết.
Không chỉ các vấn đề về thuế, một loại các vấn đề khác như vấn đề đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng đều là các vấn đề có liên quan trực tiếp tới Hải quan đòi hỏi ngành Hải quan phải có sự cải cách nhanh chóng để không làm cản trở sự phát triển của các lĩnh vực đó. Để thấy rõ được tính tất yếu của sự hội nhập trong lĩnh vực Hải quan ta cần có sự nghiên cứu sâu hơn về toàn bộ tiến trình hội nhập đồng thời cũng đòi hỏi một cái nhìn tổng quan về toàn bộ tiến trình.
II. Tiến trình hội nhập
Tiền trình hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan gắn liền với các mốc lịch sử quan trọng có liên quan của đất nước. Để có một cái nhìn tổng quan nhất về toàn bộ tiến trình hội nhập hải quan thì trước hết cần xác định rõ từng giai đoạn lịch sử quan trọng đồng thời nắm được những sự kiện nổi bật đánh dấu những bước phát triển của hải quan Việt Nam. Ta có thể chia thành các giai đoạn như sau:
1. Trước 1984
Nhìn chung, trong thời kì này thủ tục hải quan còn nhiều hạn chế, chưa có Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Sự hạn chế về mọi mặt của hải quan Việt Nam giai đoạn này xuất phát chủ yếu từ điều kiện nền kinh tế chưa mở cửa, không năng động và nặng nề về mục tiêu quản lý thuần túy.
Nhà nước độc quyền về ngoại thương nên việc trao đổi hàng hóa diễn ra chủ yếu với các nước XHCN trong Hội đồng tương trợ kinh tế bằng nghị định thư. Ngoài ra hoạt động của ngành Hải quan dựa chủ yếu vào Điều lệ Hải quan ban hành theo Nghị định số 03/CP ngày 27/2/1960. Nhìn chung chính sách hải quan thời kì này không có nhiều thay đổi do chưa có điều kiện phát triển mạnh các hoạt động ngoại thương.
2. Giai đoạn 1984 – 1997
Chủ trương đổi mới, mở cửa nền kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra đã thực sự tạo điều kiện cho sự phát triển của lĩnh vực hải quan. Cụ thể, lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, người và phương tiện xuất cảnh tăng dần kéo theo sự phát triển của hải quan. Cụ thể, việc ban hành Hiến pháp 1992 với những quy định hoàn toàn mới về chế độ, chính sách trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại như bỏ chế độ nhà nước độc quyền về ngoại thương, coogn nhận và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng… Thêm vào đó, chủ trương thu hút vốn đầu tư của nước ngoài đòi hỏi sự thông thoáng, đơn giản hóa thủ tục hải quan là vô cùng cần thiết. Từ đó tạo cơ sở cho hàng loạt các văn bản pháp luật khác ban hành với mục tiêu cải cách Hải quan.
Đây cũng là giai đoạn quan trọng với những mốc sự kiện nổi bật như sự tham gia của Hải quan Việt Nam và WCO, ASEAN, ASEM… đã tạo nên một bước ngoặt trên mọi lĩnh vực nói chung và hải quan nói riêng. Một số cải cách hải quan đã được tiến hành như áp dụng luồng xanh, luồng đỏ đối với hành khách tại các cửa khẩu sân bay quốc tế; phân luồng hàng hóa theo 3 nhóm: hành lang xanh, vàng, đỏ trong khuôn khổ ASEAN… Tiếp đó, Hải quan Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto về đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan (năm 1997) Tuy nhiên, bước đầu hội nhập cũng không tránh khỏi nhiều hạn chế, khuyết điểm như việc thực hiện còn chưa đồng bộ, thống nhất, vẫn còn ở dạng sao chép dập khuôn máy móc.
3. Giai đoạn 1998 – 9/ 2001
Mặc dù có sự tiến bộ về chính sách đường lối nhưng sự thiếu nền tảng cơ bản đã thực sự là một bất cập trong lĩnh vực hải quan. Nói một cách rõ ràng hơn, vấn đề nghiệp vụ kỹ thuật hải quan còn rất yếu kém, cơ sở hạ tầng thì hạn chế kèm theo sự quản lý thiếu khoa học đã trở thành một rào cản rất lớn đối với ngành Hải quan trước sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thời kì này. Do đó mặc dù tham gia Công ước Hài hoà Mô tả và Mã hoá Hàng hoá (Công ước HS - năm 1998) nhưng thực sự gặp rất nhiều khó khăn trong tiến trình thực hiện Công ước do những yếu kém trên. Tuy vậy, sự hỗ trợ và giúp đỡ từ phía các tổ chức quốc tế, các tổ chức hải quan của các nước phát triển, hải quan Việt Nam đã tiến hành hàng loạt những cải cách về mặt quy trình thủ tục, sắp xếp tổ chức, tiến hành thay đổi căn bản trong nhận thức về thủ tục hải quan từ mục tiêu quan lý thuần túy sang mục tiêu vừa quan lý vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Các vấn đề về nghiệp vụ ký thuật hải quan hiện đại được đưa vào dự thảo Luật hải quan nhằm tạo tiền đề, cơ sở pháp lý từ đó triển khai thực hiện trên thực tế. Từ đây, Hải quan Việt Nam bắt đầu một quá trình cải cách liên tục không ngừng nghỉ, không gấp gáp nhưng thận trọng và phù hợp với tình hình kinh tế đất nước.
Bên cạnh đó, quá trình khắc phục hạn chế yếu kém về pháp luật trong thời kì này được tiến hành thực sự nghiêm túc và hiệu quả cũng góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng của Hải quan Việt Nam. Cụ thể, hàng loạt các nghị quyết, quyết định của thủ tướng chính phủ được ban hành với yêu cầu tiến hành triển khai nhiệm vụ rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật về Hải quan như: Quyết định 355/TTg ngày 28/5/1997 về tổng rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong hơn 20 năm qua, Quyết định số 234/QĐ – TCCB thành lập ban chỉ đạo về tổng rà soát và hệ thống hòa văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về Hải quan. Đến năm 1999, qua kiểm tra phát hiện có đến hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền ban hành về chính sách, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu do chồng chéo hay không phù hợp đã gây ách tắc ở cửa khẩu, cản trở kinh doanh xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
4. Giai đoạn từ tháng 10/2001 đến nay
Luật hải quan 2001 ra đời đã thực sự đánh dấu một mốc quan trọng trong sự hoàn thiện về mặt pháp lý. Một hành lang pháp lý vững chắc sẽ làm tiền đề cho sự phát triển của Hải quan Việt Nam trong tiến trình hội nhập của đất nước.
Bên cạnh đó, đây là một thời kì hoạt động hiệu quả của Hải quan Việt Nam với những hành động cụ thể để thực hiện những Điều ước đã ký kết, tham gia:
- Ngày 29/12/2003, Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện việc xác định trị giá Hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT của WTO. Cho đến nay, Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng đầy đủ Hiệp định này.
- Thực hiện đầy đủ các cam kết trong khuôn khổ khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA), tiến tới bãi bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan trong ASEAN, diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương APEC, cũng như trong ASEM.
- Năm 2009, Hải quan Việt Nam đã hoàn tất và ký kết thỏa thuận tạm quản với đối tác và biên bản thỏa thuận hợp tác trao đổi thông tin chống buôn lậu với Hải quan Pháp; triển khai đúng tiến độ dự án lắp đặt 2 máy soi container cỡ lớn do Nhật Bản tài trợ tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng; hoàn tất việc dự thảo các văn bản thỏa thuận hợp tác song phương để có thể ký kết với New Zealand, Úc, Italia, Ucraina, Mỹ,…
Có thể thấy rằng về những cam kết quốc tế Hải quan Việt Nam đã cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình cụ thể. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, đã xây dựng các kế hoạch nhằm hiện đại hóa ngành, hướng tới các chuẩn mực khu vực và thế giới. Đến thời điểm hiện tại ngành Hải quan đã đẩy mạnh áp dụng các cách quản lý hiện đại như: áp dụng quản lý rủi ro, bước đầu triển khai thủ tục hải quan điện tử. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin không ngừng được phát triển, đáp ứng mức độ tự động hoá cao trong công tác nghiệp vụ. Các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại như máy soi container, các loại máy ngửi ma tuý, phát hiện phóng xạ… giúp nâng cao năng lực kiểm tra của cơ quan hải quan.
III. Nội dung hội nhập
1. Hợp tác Hải quan
1.1 Tình hình hợp tác trong Asean
Trở thành thành viên của ASEAN, với cam kết tạo thuận lợi cho thương mại nội khối bằng cách đơn giản hóa và hài hòa hóa các thủ tục thương mại và nâng cao hợp tác khu vực trong lĩnh vực hải quan. Ngoài ra, Việt Nam cùng các nước thành viên cũng thống nhất :
- Sử dụng danh mục biểu thuế chung để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực thông qua việc tạo ra Danh mục biểu thuế hài hoà ASEAN (AHTN).
- Không sử dụng trị giá hải quan vào các mục đích bảo hộ hay tạo ra rào cản cho thương mại. Về vấn đề này, các nước thành viên nhất trí thực hiện thống nhất các quy định của Hiệp định Trị giá WTO.
- Liên tục đơn giản hoá và hài hoà hoá các quy trình, thủ tục hải quan để đảm bảo thông quan nhanh hàng hoá, cắt giảm thời gian và chi phí giao dịch tại các cửa khẩu. Các thủ tục Hải quan phải tương thích với các chuẩn mực và các thông lệ được khuyến nghị trong Công ước Kyoto ( sau này là Công ước Kyoto sửa đổi).
- Trao đổi thông tin để ngăn chặn và trấn áp các hoạt động buôn lậu, vận chuyển ma tuý - các chất hướng thần và các hành vi gian lận Hải quan.
- Tuân thủ các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại của từng nước thành viên.
- Khuyến khích hợp tác và tham vấn với khu vực tư nhân trong ASEAN để thúc đẩy hơn nữa thuận lợi hoá thương mại nội khối.
Trong khi Hiệp định tạo ra khuôn khổ pháp lý cho diễn đàn Hải quan ASEAN thì ngày 23/5/1997 các nước thành viên đã thông qua Tầm nhìn Hải quan ASEAN đến năm 2020 tại Bandar Seri Begawan, Brunei Darussalam. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực, ngày 18/6/2008 các Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN đã thông qua Tầm nhìn Hải quan ASEAN 2015 tại Viêng chăn, Lào. Tầm nhìn là sự ghi nhận những thách thức đặt ra từ một môi trường kinh tế năng động và nhu cầu thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng hơn nữa.
1.2 Tham gia của Hải quan VN trong diễn đàn hải quan Asem
ASEM là diễn đàn hợp tác Kinh tế Á – Âu ra đời trên sáng kiến của ASEAN nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa hai châu lục. Cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên diễn ra tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 3 năm 1996 gồm 7 nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và 5 quốc gia Liên minh Châu Âu. Việt Nam tham gia các hội nghị cấp Tổng Cục trưởng và các cuộc họp của Nhóm làm việc về thủ tục hải quan và kiểm soát hải quan ASEM. Việt Nam đã tham gia rất tích cực các cuộc thảo luận, đưa ra đề nghị trợ giúp trong các lĩnh vực kỹ thuật và đào tạo về thủ tục hải quan và kiểm soát chống buôn lậu.
- Ứng dụng công nghệ thông tin: Hiện nay, ngành Hải quan đang tiếp tục triển khai các đề án ứng dụng công nghệ thông tin như hệ thống tiếp nhận khai hải quan từ xa, hệ thống quản lý loại hình nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cấp hệ thống quản lý thông tin giá tính thuế giai đoạn 2, thực hiện trao đổi thông tin về đối tượng nộp thuế với Tổng cục Thuế, Kho bạc về số thu, tình hình nợ thuế... và tăng cường trang bị máy móc, trang thiết bị tin học cho toàn Ngành.
- Nhằm cải cách và hiện đại hoá toàn diện Hải quan Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, HQVN đã triển khai thực hiện Dự án Hiện đại hoá hải quan nhằm xây dựng mô hình hoạt động hải quan phát triển theo định hướng hải quan hiện đại.
- Thực hiện Dự án ETV2 hợp phần hải quan do EU tài trợ nhằm cải thiện chính sách hải quan và dịch vụ tư vấn pháp lý cũng như tăng cường hiệu quả và hiệu lực hoạt động hải quan với những kết quả cụ thể như: tăng cường năng lực phòng thí nghiệm hải quan; tăng cường an ninh dây chuyền cung ứng và hiệu quả hoạt động; xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược một cửa quốc gia dành cho hải quan; nâng cao năng lực điều tra chống buôn lậu của cơ quan hải quan; và tăng cường khả năng thực thi các quyền sở hữu trí tuệ.
- Đã thực hiện Kế hoạch cải cách, phát triển, hiện đại hoá Hải quan giai đoạn 2004-2006 theo Quyết định 810 của Bộ trưởng Bộ tài chính và hiện nay đang triển khai Kế hoạch tiếp theo theo Quyết định 456 cho giai đoạn 2008-2010 - Đã thực hiện xong Dự án Tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng viên cao cấp phục vụ tiến trình hiện đại hoá hành chính Hải quan giai đoạn 2004-2007 do JICA tài trợ.
- Thực hiện Dự án thử nghiệm về thông quan hàng chuyển phát nhanh hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam trong khuôn khổ APEC giai đoạn 1 và chuẩn bị bước sang giai đoạn hai
- Mở rộng, nâng cấp, tăng cường trang thiết bị và hoàn thiện các Trung tâm Phân tích phân loại hàng hoá trong lĩnh vực hải quan.
- Chuẩn bị thực hiện Đề án triển khai Khuôn khổ các chuẩn mực An ninh và Tạo thuận lợi cho Thương mại toàn cầu, chương trình Xây dựng Năng lực cán bộ của Tổ chức Hải quan Thế giới (chương trình Colombus) để phục vụ cho công tác hiện đại hoá hải quan nói chung trong đó có việc triển khai Khuôn khổ các chuẩn mực An ninh và Tạo thuận lợi cho Thương mại toàn cầu
- Chuẩn bị và đang triển khai thực hiện dự án quản lý rủi ro do JICA tài trợ giai đoạn 9/2007 – 2010 nhằm giúp Hải quan Việt nam triển khai thực hiện có hiệu quả các nguyên lý của quản lý rủi ro vào hoạt động quản lý hải quan theo định hướng hiện đại hoá.
- Chuẩn bị tích cực việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại như máy soi công-ten-nơ (cố định, di động), hệ thống camera giám sát,…để nâng cao hiệu quả quản lý hải quan, rút ngắn thời gian kiểm tra kiểm soát.
I. Đánh giá nhận xét sự hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan
Xét về hình thức, sự hội nhập của Việt Nam diễn ra khá nhanh chóng trên phạm vi rộng. Tham gia, kí kết rất nhiều Điều ước quốc tế, tiến hành hợp tác trên nhiều mặt với các quốc gia khác nhưng xét về nội dung bên trong thì liệu những bước tiến đó có thực sự hiệu quả, phù hợp và đúng thời điểm hay không. Nhiều Điều ước quốc tế đề cập đến những lĩnh vực còn rất mới mẻ và đòi hỏi trình độ rất cao về chuyên môn nghiệp vụ cũng như pháp lý không chỉ trong hệ thống hải quan mà còn cả các doanh nghiệp cá nhân tổ chức trong nước.
Điển hình như đối với việc tham gia công ước HS, doanh nghiệp sẽ phải tự mình khai, tự áp mã hoàng hóa xuất nhập khẩu, tự tính thuế… nhưng do sự thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức mà nhiều trường hợp khai báo sai, tính thuế sai khiến cho doanh nghiệp bị xử phạt gây thiệt hại về kinh tế và sứt mẻ quan hệ. Thêm vào đó, việc áp mã số HS cho hàng nhập khẩu không giống nhau cho cùng một mặt hàng, tạo nhiều khó khăn cho DN trong kinh doanh. Hàng xuất khẩu tại sân bay Tân Sơn Nhất bị áp dụng các quy định cứng nhắc trong cân đong làm kéo dài thời gian khiến hàng hóa bị giảm chất lượng, nhất là đối với rau quả tươi… Đồng thời, DN cũng nêu lên kiến nghị là nên giải quyết các khó khăn khi rớt mạng trong khai báo hải quan điện tử, tháo gỡ các thủ tục kiểm tra thuế, nợ thuế, hoàn thuế… để khi áp dụng không bị ách tắc. Giám đốc Công ty TNHH cơ khí Duy Khanh (Q. Tân Phú), ông Đỗ Phước Tống kiến nghị, những mặt hàng nhập khẩu có giá trị nhỏ khoảng vài chục triệu đồng, hải quan nên giám định ngay việc áp mã HS, tránh phải mang gửi đi giám định mất thời gian của DN
Ngoài ra, ngay trong ngành hải quan, việc quán triệt để thực hiện đúng các Công ước nhiều khi cũng chưa chuyển tải hết đến các đơn vị và nhân viên, gây phiền hà, tiêu cực trong thái độ làm việc và sai sót nghiệp vụ.
Tuy vậy, với tư cách là thanh viên Hội đồng hợp tác Hải quan, Hải quan Việt Nam có điều kiện nghiên cứu, khảo sát hệ thống 16 Công ước mà tổ chức này xây dựng, quản lý do vậy nhận thấy được Công ước Kyoto là Công ước đầu tiên cần tham gia. Cùng với sự tham gia Công ước HS, Việt Nam đã tạo thêm được độ tin cậy của cộng đồng quốc tế về ý chí hội nhập và cải cách. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần nỗ lực rất nhiều để khẳng định vị trí của mình trong ASEAN bằng cách nhanh chóng cải thiện những yếu kém nội tại.
II. Kết luận
Với những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, cùng với xu hướng hội nhập chung, Hải quan không chỉ đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết mà còn trở thành một điểm sáng trong việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Những thành công đã đạt được là kết quả của cả một quá trình hội nhập với sự thay đổi, cải cách và hợp tác không ngừng nghỉ đã ngày càng giúp Việt Nam sánh vai với các quốc gia khác và khẳng định vài trò của Việt Nam trên trường quốc tế.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

nkl2900

New Member
Mình đang làm đề án về chủ đề này và thấy bài luận rất mang tính tham khảo. Bạn có thể cho mình xin file đầy đủ của bài luận này được không? Thank bạn rất nhiều ạ ^^
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ an toàn thực phẩm và các khuyến cáo cho chuỗi cung ứng thủy sản tại Việt Nam Ngoại ngữ 0
D Phân tích quản trị sự thay đổi tại Thế giới di động Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin kế toán quản lý nhân sự và tiền lương tại công ty TNHH Huy Thông Công nghệ thông tin 0
D Phân tích hiệu quả kinh tế đối với nhà máy điện gió Bạc Liêu có xét đến các yếu tố về sự thay đổi giá điện, giảm khí thải CO2 Khoa học Tự nhiên 0
C Phân tích công việc là công cụ cơ bản để quản lý nguồn nhân sự Luận văn Kinh tế 0
T Phân tích thiết kế hướng đối tượng ứng dụng trong bài toán quản lý nhân sự Tiền lương công ty thép Úc Luận văn Kinh tế 3
B Phân tích sự cần thiết của việc ứng dụng Marketing trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
S Phân tích các khái niệm: "Tổ chức sản xuất, Tổ chức quản lý" và sự thể hiện trong thực tế hoạt động Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích công tác tuyển dụng nhân sự của công ty bia huế Luận văn Kinh tế 0
T Tình hình tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết của việc phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top