daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Tóm tắt các nội dung nghiên cứu đ∙ đạt được
của đề tài kx.08.05
1. Tóm tắt các nội dung nghiên cứu đã đạt được:
a. Về khối lượng: Sản phẩm của đề tài gồm có: 01 bản Báo cáo tổng hợp
dày 296 trang; 01 bản Báo cáo tóm tắt dày 85 trang; 01 bản Kiến nghị
dày 8 trang.
b. Về nội dung: Đề tài đề cập đến 5 nội dung chủ yếu được trình bày
thành 4 chương.
+ Chương 1, trình bày: “Các vấn đề toàn cầu và những nhân tố tác động
đến chiều hướng phát triển của các vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu
của thế kỷ XXI”. Trong chương này, đề tài đã khái quát được thế nào là vấn đề
toàn cầu và đưa ra các tiêu chí khác nhau để phân loại các vấn đề toàn cầu. Đây
thực sự là điều cần thiết trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp có
tính hữu hiệu cho việc giải quyết các vấn đề toàn cầu trong thực tế. Tuy nhiên,
trong số các tác nhân tác động đến nội dung, đặc điểm, xu thế của các vấn đề
toàn cầu, đề tài chỉ tập trung phân tích 3 tác nhân chủ yếu là: kinh tế, chính trị và
khoa học – kỹ thuật.
+ Chương 2 của đề tài trình bày: “Những vấn đề toàn cầu nổi lên trong
hai thập niên đầu của thế kỷ XXI”. Trong chương này, đề tài trình bày những
vấn đề toàn cầu cụ thể đang và sẽ nổi lên trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI dựa
trên cơ sở phân loại thành 3 nhóm vấn đề mà chương 1 đã nói tới. Ưu điểm của
đề tài thể hiện không chỉ ở sự liệt kê và phân loại các vấn đề toàn cầu mà chủ yếu
là cung cấp cho người đọc một bức tranh tổng thể, khá đậm nét, khá phức tạp về
các vấn đề toàn cầu. Đề tài đã chỉ ra mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các
nhóm vấn đề toàn cầu nói chung và giữa các vấn đề toàn cầu cụ thể nói riêng.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nắm bắt thực chất của những vấn đề
toàn cầu cụ thể và, qua đó, có thể đưa ra được các giải pháp cụ thể trong việc giải
quyết những vấn đề toàn cầu đang và sẽ có thể nảy sinh ở Việt Nam.
+ Chương 3 của đề tài tập trung trình bày: “cách giải quyết
những vấn đề toàn cầu và một số kinh nghiệm quốc tế”. Trên cơ sở 4 nguyên
tắc chung mà tập thể tác giả đưa ra, đề tài nêu ra 4 giải pháp chủ yếu trong quá
trình giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đáng chú ý là, trong chương này, đề tài đã
trình bày một cách tổng quát và rõ nét kinh nghiệm của một số nước cụ thể trongviệc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Hơn thế, qua những kinh nghiệm quốc tế
trong quá trình giải quyết những vấn đề toàn cầu cụ thể, đề tài đã rút ra được một
số bài học kinh nghiệm cụ thể cho khả năng giải quyết các vấn đề toàn cầu tương
tự có thể nảy sinh trong quá trình phát triển ở Việt Nam.
+ Chương 4 của đề tài mang tên: “Việt Nam và những vấn đề toàn cầu”.
Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của chương này là sự phân tích của
đề tài về những khó khăn và thách thức mà những vấn đề toàn cầu đang và sẽ có
thể đặt ra đối với nước ta. Trong đó, đề tài đã tập trung vào trình bày và phân tích
một cách sâu sắc 3 vấn đề có tính toàn cầu cụ thể, đang nổi lên một cách cấp
bách ở Việt Nam hiện nay. Đó là: vấn đề môi trường; vấn đề dân số; vấn đề
phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm, tệ nạn ma tuý,
vấn đề phòng chống HIV/AIDS và các căn bệnh hiểm cùng kiệt khác. Trên cơ sở
đó, đề tài đã đưa ra và phân tích một cách cụ thể 5 hướng giải pháp chung cho
những vấn đề toàn cầu của Việt Nam. Đáng chú ý là, những giải pháp này đều
bám sát thực tiễn và nhu cầu phát triển của đất nước.
2. Về những kết quả nghiên cứu mới của đề tài:
+ Đề tài đ∙ nêu lên một định nghĩa về “những vấn đề toàn cầu” có giá
trị tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu về những vấn đề toàn cầu.
+ Qua việc phân loại và trình bày rõ nét những vấn đề toàn cầu chủ yếu nổi
lên trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, đề tài đ∙ chỉ ra khá rõ nét chiều
hướng phát triển của những vấn đề đó trong hai thập niên đầu của thế kỷ
XXI. Cùng với đó, đề tài đưa ra những nhận xét mang tính phê phán đối với các
phương án không tưởng hay không khả thi, đồng thời mạnh dạn nêu lên những
giải pháp có tính khả thi đối với việc giải quyết một số vấn đề toàn cầu cụ thể.
+ Đề tài đ∙ nêu ra 5 hướng giải pháp cụ thể cho những vấn đề toàn cầu
ở Việt Nam, trong đó đáng chú ý là kiến nghị “phải sớm thành lập các Trung
tâm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu”.
3. Về giá trị sử dụng, ứng dụng của đề tài:
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch
định các chính sách đối nội, đối ngoại, làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục trong
hệ thống tuyên huấn, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu để góp phần nâng cao
nhận thức về những vấn đề toàn cầu để mọi cơ quan, mọi cá nhân có ý thức đúng
đắn, có trách nhiệm xử lý, giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiMục lục
Trang
Phần mở đầu 1
1 4
I. Tổng quan tình hình nghiên cứu .........................................................
II. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài .......................................
III. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 5
Phần nội dung 6
Chương 1. Các vấn đề toàn cầu và những nhân tố
tác động đến chiều hướng phát triển của các vấn đề
toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI 6
1.1. Các vấn đề toàn cầu: lịch sử, khái niệm, phân loại ....................... 6
1.2. Những nhân tố tác động đến chiều hướng phát triển của các vấn
đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI .................... 24
1.2.1. Sự biến đổi và tác động của các nhân tố kinh tế đối với
chiều hướng phát triển của các vấn đề toàn cầu ................... 26
1.2.2. Sự biến đổi và tác động của nhân tố khoa học và công nghệ
đến những vấn đề toàn cầu ................................................... 39
1.2.3. Tác động của nhân tố chính trị đối với toàn cầu hoá và các
vấn đề toàn cầu ..................................................................... 47
Chương 2. Những vấn đề toàn cầu nổi lên trong hai
thập niên đầu của thế kỷ XXI 49
2.1. Những vấn đề toàn cầu gắn liền với mối quan hệ giữa các cộng
đồng xã hội cơ bản của nhân loại ................................................... 49
2.1.1. Vấn đề chiến tranh và hoà bình ............................................ 50
2.1.2. Vấn đề xung đột tôn giáo và dân tộc ..................................... 61
2.1.3. Vấn đề phân hoá giàu cùng kiệt ................................................. 93
2.1.4. Vấn đề tội phạm quốc tế ........................................................ 100
2.2. Nhóm những vấn đề toàn cầu nảy sinh từ sự tác động qua lạigiữa xã hội loài người và giới tự nhiên ............................................ 109
2.2.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường sống ........................................... 110
2.2.2. Vấn đề cạn kiệt nguồn nước .................................................. 120
2.2.3. Vấn đề năng lượng ................................................................. 126
2.3. Nhóm những vấn đề toàn cầu liên quan trực tiếp đến con người,
đến sự tồn tại của cá nhân con người ............................................. 132
2.3.1. Vấn đề dân số ........................................................................ 132
2.3.2. Vấn đề lương thực, thực phẩm ............................................... 151
2.3.3. Vấn đề bệnh tật ...................................................................... 159
2.3.4. Vấn đề di dân tự do trong mỗi quốc gia và trên phạm vi
quốc tế ................................................................................... 162
Chương 3. cách giải quyết những vấn đề toàn
cầu và một số kinh nghiệm quốc tế 181
3.1. Những nguyên tắc chung và một số giải pháp trong quá trình
giải quyết các vấn đề toàn cầu ........................................................ 181
3.1.1. Những nguyên tắc chung ....................................................... 181
3.1.2. Một số giải pháp chủ yếu trong quá trình giải quyết các vấn
đề toàn cầu ............................................................................ 191
3.2. Một số kinh nghiệm từ thực tiễn của Liên Xô và Liên bang Nga.. 202
3.3. Kinh nghiệm từ thực tiễn Trung Quốc ........................................... 204
3.4. Kinh nghiệm từ thực tiễn các nước ASEAN.................................... 207
3.5. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong việc
giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ............................................ 209
Chương 4. Việt Nam và những vấn đề toàn cầu 232
4.1. Định hướng của Đảng, Nhà nước ta trong việc giải quyết các vấn
đề toàn cầu và những thành tựu bước đầu .................................... 232
4.1.1. Quan điểm chung và nguyên tắc chủ đạo trong việc giải
quyết các vấn đề toàn cầu ..................................................... 232
4.1.2. Chiến lược phát triển bền vững và những thành tựu quan
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phitrọng về kinh tế - xã hội ........................................................ 241
4.1.3. Thành tựu bước đầu trong vấn đề bảo vệ môi trường ............ 245
4.1.4. Tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm quốc tế ........... 246
4.1.5. Bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế ...................................... 248
4.1.6. Một số thành tựu bước đầu trong việc xoá đói giảm nghèo... 250
4.2. Những khó khăn và thách thức ....................................................... 252
4.2.1. Vấn đề môi trường ................................................................. 252
4.2.2. Vấn đề dân số ........................................................................ 274
4.2.3. Vấn đề phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, đặc biệt
là tội phạm, tệ nạn ma tuý, vấn đề phòng chống HIV/AIDS
và các căn bệnh hiểm cùng kiệt khác ......................................... 281
4.3. Một số giải pháp chung cho những vấn đề toàn cầu của Việt
Nam ........................................................................................................... 283
4.3.1. Phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm cùng kiệt ................. 283
4.3.2. Tăng cường cuộc đấu tranh chống tội phạm và các tệ nạn
xã hội ..................................................................................... 288
4.3.3. Thành lập các trung tâm nghiên cứu vấn đề toàn cầu, tăng
cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chuyên trách........................................................................... 289
4.3.4. Hoàn thiện cơ chế hoạch định – triển khai và hệ thống các
văn bản pháp luật và chính sách bám sát với thực tiễn cuộc
sống và phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế............ 291
4.3.5. Quan trọng bậc nhất là nâng cao nhận thức, ý thức và vai
trò của quần chúng nhân dân trong việc tự giác tích cực
hành động, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu………… 293
Kết luận 295
Danh mục tài liệu tham khảo 2971
Phần mở đầu
I. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Toàn cầu hoá là xu thế lớn của thế giới đương đại, đang có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển của các dân tộc, các quốc gia và của toàn thể nhân loại.
Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, do vậy nó là tất yếu và không ai có thể
lảng tránh nó hay phủ nhận nó. Tuy nhiên, toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá
kinh tế, là quá trình đang gây ra hiệu ứng hai mặt. Một mặt, nó tạo ra những cơ hội
to lớn cho sự phát triển. Mặt khác, nó cũng tạo nên những thách thức không nhỏ
nhất là cho các nước kém phát triển. Đúng như Đại hội IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhận định: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh”1. Do vậy, toàn cầu hoá vừa đang được sự ủng hộ mạnh
mẽ nhưng cũng vừa bị nghi ngại, bị dè chừng, thậm chí bị phản đối dữ dội từ phía
các lực lượng chống toàn cầu hoá ở nhiều nước trên phạm vi thế giới.
Việc nhận thức sâu sắc bản chất, đặc điểm và sự vận động của quá trình
toàn cầu hoá đang diễn ra, nhất là các vấn đề do nó sản sinh, sẽ giúp chúng ta
hiểu sâu hơn thời đại ngày nay, từ đó giúp chúng ta nhận ra những cái mới đang
và sẽ diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực tác động đến công cuộc
đổi mới, đến tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Hơn thế
nữa, hiểu sâu, nắm vững các vấn đề toàn cầu của thời đại, dự báo chính xác về
những tác động của các vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI đối
với thế giới và đối với nước ta trên cơ sở những phân tích và luận chứng khoa học
vững chắc về toàn cầu hoá, chúng ta sẽ đề ra được một chiến lược khôn ngoan, có
hiệu quả để theo kịp nhịp độ phát triển của thế giới, mà trước hết là tranh thủ các
cơ hội nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, đồng thời giảm đến
mức tối thiểu những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá và của các vấn đề toàn
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.13.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2
cầu đối với nước ta, góp phần cùng với cộng đồng thế giới giải quyết chúng một
cách có kết quả. Những điều vừa trình bày trên đây làm cho nhiệm vụ nghiên cứu
những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI trở nên rất cấp bách cả
về phương diện lý luận lẫn về phương diện thực tiễn.
Ngoài nước:
Từ những năm 90 thế kỷ XX trở lại đây, ở tất cả các nước lớn trên thế giới
như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc đều có nhiều công trình nghiên cứu
quan trọng về những vấn đề toàn cầu của thời đại, dự báo những vấn đề sẽ trở
thành những vấn đề chung của khu vực và thế giới trong thập niên cuối cùng của
thế kỷ XX, cũng như những năm đầu của thế kỷ XXI. Trong số các công trình
đó, trước hết phải kể đến những công trình của nhà tương lai học người Mỹ Avin
Toffler như: Thăng trầm quyền lực (Nxb Thông tin Lý luận, Thành phố Hồ Chí
Minh, 1991); Làn sóng thứ ba hay Đợt sóng thứ ba (Nxb Thông tin Lý luận, Hà
Nội, 1992; Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996); Cú sốc tương lai (Nxb Thông
tin Lý luận, Hà Nội, 1992) và Chiến tranh chống chiến tranh, sự sống còn của
loài người ở buổi bình minh của thế kỷ XXI (Nxb Chính trị Quốc gia, Viện thông
tin Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995). Trong những công trình đó, Avin Toffler đã
dự báo sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức, những đặc điểm mới của
các cuộc chiến tranh; dự báo về các cuộc xung đột dân tộc, tộc người và tôn giáo.
Bên cạnh các công trình đó, nhiều công trình nổi tiếng khác như: Chuẩn bị cho
thế kỷ XXI của Paul Kennedy (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995); Nhỏ là
đẹp của E.F. Schumacher (Nxb Khoa học Xã hội, Viện Thông tin Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1995); Bước vào thế kỷ XXI. Hành động tự nguyện và chương trình
nghị sự toàn cầu của David Korten (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996); Sự
đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI của Marizon Tourraine (Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1996); Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu của
George Soros; Con đường đi đến năm 2015. Hồ sơ của tương lai của John
L.Petersen (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000); Toàn cầu hoá, tăng trưởng
và cùng kiệt đói (Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002); Kiềm chế tham nhũng của
Rick Staphenhurst, Shar J.Kpundeh (Ngân hàng thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia,3
2002); Chiếc Lexus và cây Ôliu hay Toàn cầu hoá là gì? của Thomas
L.Friedman, xuất bản vào các năm 1999, 2000 và được dịch sang tiếng Việt
2005, Nxb. Khoa học Xã hội; v.v. đã phân tích những xu hướng lớn của thế giới
và khu vực trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và dự báo những vấn đề sẽ
trở thành mối quan tâm chung của khu vực và thế giới trong những năm đầu của
thế kỷ XXI.
Tất cả các công trình đó và một số công trình khác đã đi sâu phân tích
từng vấn đề toàn cầu cụ thể như vấn đề chiến tranh và hoà bình, vấn đề cạn kiệt
tài nguyên và ô nhiễm môi trường, vấn đề bệnh tật, v.v. đã dự báo một số vấn đề
sẽ nảy sinh vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế
kỷ XXI. Mặc dù vậy, vẫn cần có thêm những công trình từ nhiều góc độ khác
nhau nghiên cứu về Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ
XXI.
Trong nước:
Từ những năm 90 trở lại đây, ở Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu về những vấn đề toàn cầu và sự tác động của nó đối với Việt
Nam trong thế kỷ XX. Những vấn đề như: chiến tranh và hoà bình, dân số,
cùng kiệt đói và bệnh tật, nạn cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường,
lương thực và thực phẩm, tội phạm quốc tế, v.v. đã thu hút sự quan tâm và
chú ý của nhiều nhà khoa học, cũng như của nhiều cơ quan chức năng. Một
số chuyên khảo và nhiều bài báo đã được công bố. Trong số đó, cần kể đến
các công trình của các tác giả như: Đặng Ngọc Dinh. Công nghệ năm 2000
đưa con người về đâu (Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1992); Đặng Mộng
Lân. Thế giới năm 2000 - những xu hướng kinh tế và công nghệ (Nxb Khoa
học Kỹ thuật, Hà Nội, 1992); Nguyễn Xuân Yêm. Tội phạm quốc tế -
những bàn tay bạch tuộc (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994); Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường. Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1996
(Hà Nội, 1996); Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Hiện trạng môi
trường Việt Nam năm 1998 (Hà Nội, 1998); Nguyễn Trần Quế. Những vấn
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi4
đề toàn cầu ngày nay (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999), Nguyễn Duy
Quý (chủ biên). Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002), Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Hữu Tiến
(đồng chủ biên). Góp phần nhận thức thế giới đương đại. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003, v.v.. Ngoài ra, còn có hàng loạt bài báo trên các
tạp chí chuyên ngành bàn về các khía cạnh cụ thể khác nhau của vấn đề
toàn cầu.
Tuy nhiên, hiện nay một số vấn đề toàn cầu mới đã nảy sinh, chẳng hạn,
vấn đề xung đột dân tộc, tộc người và tôn giáo, cần có sự nghiên cứu một cách
thấu đáo. Mặt khác, các công trình nghiên cứu về những vấn đề toàn cầu ở Việt
Nam mới chỉ dừng lại ở hiện trạng và những vấn đề đặt ra vào những năm cuối
của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI; chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về những vấn đề toàn cầu trong hai thập
niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt là sự tác động của chúng đến nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
II. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
Phạm vi của các vấn đề toàn cầu là rất rộng, theo yêu cầu của chương
trình, trên cơ sở làm rõ nội dung, thực chất của những vấn đề toàn cầu, tầm
quan trọng của việc giải quyết chúng đối với lợi ích các dân tộc và tương lai
nhân loại đề tài tập trung làm rõ những nguyên nhân làm cho những vấn đề
toàn cầu trở nên bức xúc và phức tạp; làm rõ thời cơ và thách thức trong việc
giải quyết những vấn đề toàn cầu đối với toàn nhân loại những thập niên đầu
thế kỷ XXI; cách cơ bản để giải quyết vấn đề toàn cầu, cũng như ảnh
hưởng của một số vấn đề toàn cầu bức bách nhất đối với Việt Nam và đối sách
của chúng ta.
Để thực hiện những mục đích trên đây, đề tài có nhiệm vụ:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm, lịch sử vấn đề toàn cầu và các cách phân
loại vấn đề toàn cầu.
Thứ hai, phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến chiều hướng
phát triển của các vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI.5
Thứ ba, phân tích những vấn đề toàn cầu nổi lên trong hai thập niên đầu
của thế kỷ XXI (chủ yếu tập trung vào những vấn đề như ô nhiễm môi trường
và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, vấn đề dân số và bệnh tật, vấn đề lương
thực, thực phẩm và sự phân hoá giàu nghèo, v.v.).
Thứ tư, trên cơ sở trình bày kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
và trên thế giới trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu, góp phần phân tích
các hình thức hợp tác và đấu tranh trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Thứ năm, trên cơ sở phân tích tác động của những vấn đề toàn cầu đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, làm rõ những cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam.
Do yêu cầu của chương trình, đề tài KX.08.05 chỉ tập trung phân tích sâu
một số vấn đề trong hệ các vấn đề toàn cầu được dự báo sẽ nổi lên trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI sẽ tác động mạnh đến nước ta.
III. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
trong quá trình nghiên cứu. Cơ sở phương pháp luận để thực hiện đề tài là quan
niệm mácxít về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với
con người trong quá trình phát triển xã hội.
Các phương pháp sẽ sử dụng khi nghiên cứu là:
+ Phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử.
+ Phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, khái quát hoá.
+ Phương pháp dự báo khoa học.
+ Phương pháp so sánh.
Các kỹ thuật sẽ sử dụng là:
+ Phân tích tài liệu trong và ngoài nước hiện có có liên quan đến nội dung
của đề tài.
+ Xử lý các số liệu từ một số cuộc khảo sát đã được tiến hành.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
Phần Nội dung
Chương 1
Các vấn đề toàn cầu và những nhân tố tác động
đến chiều hướng phát triển của các vấn đề toàn cầu
trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI.
1.1. Các vấn đề toàn cầu: lịch sử, khái niệm, phân loại
Khái niệm “những vấn đề toàn cầu” xuất hiện phổ biến từ đầu những
năm 60 của thế kỷ XX. Cũng như khái niệm “toàn cầu hoá”, khái niệm “những
vấn đề toàn cầu” đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu của các
trường phái khoa học, các trào lưu tư tưởng, các bài diễn văn quan trọng của
một số nguyên thủ quốc gia, các báo cáo thường niên của nhiều tổ chức quốc tế
khác nhau, v.v. trên khắp thế giới, kể cả những văn kiện chính thức của tổ chức
lớn nhất là Liên Hợp Quốc, suốt từ khi xuất hiện cho đến nay.
Không thể phủ nhận rằng, các công trình đó, trước hết là các công trình
nghiên cứu, ở những mức độ khác nhau, đã có những đóng góp có giá trị nhất
định, trước hết là giá trị cảnh báo, nhằm thức tỉnh lương tâm con người về
tương lai của nhân loại và về cách cư xử đối với giới tự nhiên với tư cách là cơ
sở tồn tại của chính mỗi cá nhân con người cũng như của toàn thể nhân loại.
Tuy nhiên, không có một trào lưu hay một trường phái khoa học nào đã đưa ra
được câu trả lời đầy đủ hay đề xuất các giải pháp thoả đáng cho những vấn đề
toàn cầu được mọi người chấp nhận.
Tại sao lại có tình trạng như vậy?
Có lẽ một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng này là do sự
hạn chế của các cách tiếp cận đối với vấn đề này, mà một trong số cách tiếp cận
như vậy chỉ xuất phát thuần túy từ góc độ kinh tế, góc độ kinh doanh, thương mại
mà không chú ý đến góc độ quan hệ giữa các quốc gia, góc độ chính trị - xã hội.7
Bên cạnh đó, một lý do nữa cũng hết sức quan trọng là sự khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, về mặt lợi ích, kể cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích chính trị,
của các chủ thể, của các quốc gia khi phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu
này và khi đề xuất các giải pháp, nhất là các khoản chi phí lớn về mặt tài
chính, để giải quyết chúng.
Trong một bối cảnh phức tạp như vậy thì việc xuất phát từ quan điểm
duy vật biện chứng để xem xét các vấn đề toàn cầu là hết sức cần thiết. Bởi vì,
chính quan điểm này sẽ cho phép chúng ta phân tích một cách khách quan,
toàn diện và đi sâu hơn vào thực chất của những vấn đề toàn cầu, từ đó có thể
gợi mở các cách giải quyết chúng một cách có kết quả.
Chúng tui cho rằng, để nhận thức các vấn đề toàn cầu một cách đúng
đắn, thì cần tiếp cận quá trình toàn cầu hoá cùng với các vấn đề toàn
cầu như một hệ thống thống nhất, có lôgíc nội tại, bởi vì, những vấn đề toàn
cầu dù nhìn bề ngoài có nét riêng biệt về tính chất và mức độ gay gắt có thể
khác nhau, song giữa chúng lại có những điểm chung và có sự thống nhất
đáng kể. Đồng thời, khi tiếp cận các vấn đề toàn cầu và gợi mở cách
giải quyết chúng thì nhất định phải vì mục tiêu phát triển bền vững của cả loài
người lẫn của giới tự nhiên với tính cách là cơ sở tự nhiên của tồn tại người.
Nhiều nhà nghiên cứu ở phương Tây, khi viết về những vấn đề toàn cầu,
thường gắn chúng với sự tăng trưởng kinh tế và quan hệ giao lưu kinh tế thuần
túy do những tiến bộ mạnh mẽ, những thành tựu to lớn của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại mang lại. Nói cách khác, những vấn đề toàn cầu nhiều
khi chỉ được người ta xem xét, phân tích, lý giải thuần túy từ góc độ kinh tế.
Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác, tuy rằng đứng trên lập
trường mácxít, nhưng lại quá nhấn mạnh và thường xuyên chỉ gắn những vấn
đề toàn cầu với tiến trình hiện thực hoá các thành tựu của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ trong điều kiện của cách sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chắc chắn rằng, việc gắn những vấn đề toàn cầu của thời đại với kinh tế,
khoa học, kỹ thuật và công nghệ không những không có gì sai, mà thậm chí còn
là tất yếu. Song, theo chúng tôi, điều đó chưa đủ. Bởi vì, ngoài khía cạnh liên
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
quan tới kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ ra, những vấn đề toàn cầu
còn liên quan đến chính trị, đến rất nhiều yếu tố xã hội khác, hơn thế nữa,
chính chúng còn là các vấn đề chính trị - xã hội gay gắt, như vấn đề chiến tranh
và hoà bình, vấn đề giảm bớt và từng bước xoá bỏ sự bất công, sự phân cực giàu
cùng kiệt giữa các quốc gia, vấn đề các điều kiện đảm bảo cuộc sống bình thường
và tương lai của cá nhân con người và của cả loài người, v.v..
Chẳng hạn, sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa từ sau khi
chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, sự đối đầu gay gắt giữa hệ thống xã hội
chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh kéo
dài suốt trong nhiều năm của thế kỷ XX. Đồng thời, sự đe dọa của cuộc chiến
tranh nóng trong thời đại vũ khí hạt nhân, của vũ khí sinh học và hoá học đã
buộc các quốc gia, nhất là các siêu cường, phải huy động đến mức tối đa có thể
huy động được những khả năng dự trữ và các nguồn tài nguyên của họ nhằm
tăng cường cao nhất khả năng quốc phòng của họ đã thể hiện rõ Điều này.
Nói cách khác, những vấn đề toàn cầu hiện nay là sản phẩm của toàn
cầu hoá, phát sinh từ quá trình toàn cầu hoá, biểu hiện ra với tính cách là
một phức hợp của các vấn đề khoa học, kỹ thuật và các vấn đề chính trị - x∙
hội của thời đại chúng ta mà muốn giải quyết chúng thì cần có sự nỗ lực và
hợp tác của cộng đồng thế giới.
Trong số rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học đứng trên quan
điểm mácxít đề cập đến những vấn đề toàn cầu cho đến nay, có thể nói, đáng
chú ý nhất là công trình của V.V.Dagơlađin và T.I.Phơrolốp có tựa đề là
"Những vấn đề toàn cầu thời hiện đại" (Mátxcơva, 1981). Theo quan điểm
của các tác giả này thì những vấn đề toàn cầu bao gồm:
"Thứ nhất, là những vấn đề thực sự đụng chạm đến lợi ích của toàn thể
loài người, đến tương lai của loài người. Theo nghĩa đó thì có thể nói rằng,
những vấn đề toàn cầu mang tính chất nhân loại".
Thứ hai, "đó là những vấn đề bao quát chung và, trên thực tế, thực sự có
tính chất quốc tế, có nghĩa là được thể hiện như một yếu tố khách quan trong
sự phát triển xã hội ở mọi khu vực chủ yếu trên trái đất".
Thứ ba, đó là "những vấn đề mà nếu không giải quyết thì sẽ có nguy cơ
đe dọa tương lai của loài người, hay là những vấn đề phải giải quyết để đảm
bảo cho sự phát triển tiếp tục của xã hội".9
Thứ tư, đó là "những vấn đề của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật,
những vấn đề có tính chất xã hội - chính trị mà để giải quyết chúng thì phải
hợp nhất sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, tức là những vấn đề không
thể giải quyết ở quy mô địa phương hay khu vực"2.
Như vậy, có thể nói rằng, những vấn đề toàn cầu, thứ nhất, là những vấn
đề có quan hệ trực tiếp đến hoạt động sống của mọi người trên trái đất, không
phân biệt địa vị giai cấp, chính trị - xã hội; đến sự phát triển của toàn thể nhân
loại, đến vận mệnh của các quốc gia dân tộc. Thứ hai, những vấn đề toàn cầu
đều thể hiện là nhân tố khách quan của sự phát triển xã hội và thể hiện ở mọi
nơi trên trái đất. Thứ ba, tất cả những vấn đề toàn cầu đều đòi hỏi phải được
giải quyết vì nếu không được giải quyết thì chúng sẽ đe dọa phá hủy cơ sở tồn
tại của chính con người. Thứ tư, việc giải quyết các vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải
có sự đầu tư về phương tiện vật chất, sự hợp tác quốc tế về mọi mặt không phân
biệt chế độ xã hội, tôn giáo, chính kiến, hệ tư tưởng; đòi hỏi sự nỗ lực tối đa của
cả nhân loại cả về mặt nhận thức lẫn về những hành động thực tế.
Nếu xuất phát từ các tiêu chuẩn trên, có thể nói rằng, những vấn đề toàn
cầu chủ yếu bao gồm: vấn đề chiến tranh hạt nhân, chiến tranh huỷ diệt và bảo
vệ hoà bình; vấn đề khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu và kém phát triển
của các nước thuộc địa trước đây; vấn đề việc làm cho mọi người; vấn đề bất
công trong xã hội và phân hoá giàu cùng kiệt giữa các quốc gia; vấn đề xung đột
tộc người, dân tộc và tôn giáo; vấn đề khan hiếm năng lượng và bảo đảm
nguồn năng lượng; vấn đề cung cấp nguồn nước sạch cho sản xuất và tiêu
dùng; vấn đề cung cấp lương thực và thực phẩm cho con người; vấn đề sinh
thái và bảo vệ môi trường sống; vấn đề sử dụng phức hợp và hợp lý các đại
dương và không gian vũ trụ; các vấn đề có liên quan đến sự bùng nổ dân số
của thế giới, nhất là ở các nước kém phát triển, và việc duy trì sự phát triển
bền vững khi khai thác các nguồn tài nguyên đáp ứng cho nhu cầu của sự
bùng nổ dân số đó; vấn đề thực phẩm biến đổi gien và an toàn thực phẩm; vấn
2 V.V.Dagơlađin, T.I.Phơrolốp. Những vấn đề toàn cầu thời hiện đại. Mátxcơva, 1981, tr. 8, 9,10 (tiếng Nga).
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
đề sức khoẻ con người và bệnh tật mang tính thời đại của nhân loại; vấn đề
chống các loại tội phạm quốc tế như nạn khủng bố, sản xuất, mua bán, tiêu
thụ hảng giả và tiền giả mang tính quốc tế; nạn đầu cơ tiền tệ gây khủng
hoảng kinh tế để thu lợi; tội phạm máy tính và thông tin; nạn sản xuất và buôn
bán ma túy, tham nhũng và rửa tiền, buôn bán phụ nữ và trẻ em; nạn cướp biển
có tổ chức; v.v..
Một số tác giả khác cho rằng, hiện nay có khoảng 30 vấn đề toàn cầu như vậy3,
hay Liên Hợp quốc nêu ra tổng cộng 51 nhiệm vụ (issues) đang được và cần giải
quyết, trong đó, ngoài những vấn đề trên còn có những vấn đề và nhiệm vụ quan
trọng như văn hoá, giáo dục, gia đình, người tàn tật, quản trị, quyền con người, tăng
trưởng bền vững, vấn đề khí hậu toàn cầu nóng lên, nạn băng tan, nạn phá rừng và
buôn bán trái phép động vật quý hiếm, v.v..4
Sở dĩ số lượng các vấn đề toàn cầu được nêu ra khác nhau như vậy là do
người ta phân chia nhỏ chúng ra. Song, theo chúng tôi, cần khẳng định
rằng, dù có kể ra bao nhiêu vấn đề chăng nữa, khi đã xuất hiện rồi thì chúng
cũng không nằm tách biệt hoàn toàn với các vấn đề khác.
Chẳng hạn, khi dân số tăng nhanh thì các nước sẽ phải khai thác đất đai
và tất cả các nguồn tài nguyên khác mạnh mẽ hơn, do vậy, tài nguyên và môi
trường sẽ có nguy cơ bị cạn kiệt nhanh hơn, bị huỷ hoại nhiều hơn, nạn lụt lội,
nạn hạn hán, nạn hoang mạc hoá, v.v. sẽ tăng lên. Khi các nguồn tài nguyên bị
kiệt quệ, môi trường tự nhiên bị thoái hoá hay nhất là bị tàn phá thì tốc độ
phát triển kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ chậm lại, do vậy, tất yếu sẽ kéo theo
sự gia tăng cùng kiệt đói. Nếu tình trạng cùng kiệt đói diễn ra tràn lan và kéo dài thì
không tránh khỏi dẫn đến sự mất ổn định xã hội, đến xung đột, đến nội chiến.
Các cuộc xung đột vũ trang đẫm máu và nội chiến triền miên ở một loạt nước
châu Phi suốt nhiều năm qua và cả hiện nay là bằng chứng dễ thấy nhất về
điều này. Đó là chưa nói đến những cuộc chiến tranh do một số nước lớn tiến sử dụng nước chứ không được sở hữu nó. Nước là vấn đề của hiện tại và cũng
là của tương lai, của sự phát triển bền vững. Cuộc khủng hoảng về nước hiện
nay chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở chung sức của cả loài người trên Trái
đất: đó là sự chia sẻ bình đẳng và trách nhiệm giữa người và người, giữa các
quốc gia, dân tộc.
Các giải pháp về nước có thể được thực thi là kinh tế, khoa học, công
nghệ, quản lý hành chính, luật pháp, v.v. nhưng quan trọng hơn cả là biết sử
dụng hợp lý yếu tố xã hội nhân văn, văn hoá. Theo ông Federico Maior -
nguyên tổng giám đốc UNESCO: "Công nghệ và thị trường có thể là những
đồng minh quý giá trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng nước đang hiển
hiện, nhưng giải pháp cuối cùng phải dựa trên nền tảng đạo lý và văn hoá. Giải
pháp này đi theo ba trục: phải tỏ ra táo bạo; quan tâm đến người khác và cùng
chia sẻ", dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, hoà bình và vì sự phát triển bền
vững.
2.2.3. Vấn đề năng lượng
Năng lượng là một trong những điều kiện tối kiên quyết của sự sống
còn và phát triển của mỗi con người và toàn nhân loại. Điều kiện tiên quyết
cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ nền văn minh nào đều là năng lượng.
Các xã hội nông nghiệp sử dụng các nguồn năng lượng có thể phục hồi lại như
rừng, gió, nước. Cho đến cuộc cách mạng Pháp 1789, châu Âu lấy năng lượng
từ khoảng 1/4 triệu con ngựa và 14 triệu con bò. Thực tế lịch sử sự phát triển
của loài người cũng như của mỗi quốc gia cho đến nay chứng tỏ rằng, xã hội
càng phát triển thì nhu cầu sử dụng năng lượng càng lớn. Nhu cầu sử dụng
năng lượng tăng đột biến được bắt đầu khi diễn ra quá trình công nghiệp hoá
dựa trên cơ sở cách mạng công nghiệp. Các xã hội công nghiệp lấy năng
lượng từ than đá, khí đốt và dầu mỏ, từ các nguồn nguyên liệu không thay thế
được ở dưới đất. Việc lấy nguồn tài nguyên năng lượng dự trữ của trái đất đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế. Toàn bộ nền công nghiệp và kinh tế của các quốc
gia đã trải qua công nghiệp hoá đều dựa trên điều kiện là các nguồn nguyên127
liệu năng lượng có sẵn trong lòng đất. Đó là các nguyên liệu tập trung không
khôi phục được.
Sự tăng lên đột biến nhu cầu sử dụng năng lượng trong khoảng 300 năm
qua khiến cho các nguồn năng lượng mà con người có thể khai thác được
trong thực tế đang ngày càng cạn kiệt (than, dầu lửa, thủy điện). Năm 1850 do
sự phát triển của công nghiệp, năng lượng tiêu thụ lúc đó tương đương 33
ngàn triệu tấn than đá cho một thế kỷ. Đến giữa thế kỷ XX, mức tiêu thụ năng
lượng tương đương với 330 ngàn triệu tấn than/cuối thế kỷ. Mặc dầu vậy than
đá cũng chỉ cung cấp cho khoảng 1/3 nhu cầu năng lượng còn 2/3 số còn lại là
ở dầu và khí. Nhưng từ lâu loài người đã biết rằng cả dầu, khí và than đá đều
không phải là những nguồn năng lượng vô tận. Khả năng phục hồi của các
nguồn năng lượng này là bằng không. Các mỏ lớn trên trái đất đều đã được
phát hiện và đưa vào sử dụng. Khả năng tìm nguồn bổ sung cho các dạng năng
lượng truyền thống hiện đang sử dụng đã không còn.
Tình trạng khan hiếm năng lượng đã đến mức báo động không phải trên
lý thuyết mà là trong thực tế. Nhân loại đã chứng kiến nhiều cuộc khủng
hoảng về giá dầu gây những chấn động lớn đến kinh tế thế giới. Đặc biệt,
những cuộc khủng hoảng ở những năm 70 của thế kỷ XX với giá dầu tăng từ
khoảng 10-11 USD/thùng lên đến 37 USD/thùng và cuộc khủng hoảng hiện
nay kéo dài đã 2 năm nay và vẫn đang tiếp tục đã nâng giá dầu có lúc đã trên
75 USD/thùng - một mức tăng lịch sử rất đáng lo ngại cho toàn bộ nền kinh tế
thế giới, có thể gây khủng hoảng không chỉ cho một số nước mà cho cả hệ
thống kinh tế quốc tế. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ hiện nay đã làm đảo lộn toàn
bộ các kế hoạch và quan niệm đã được đưa ra tại Đại hội thế giới về dầu mỏ
lần thứ 15 (năm 1997) và cả nhiều dự báo trước đây một, hai năm của các tổ
chức quốc tế như WB, IMF, IEAE, UNDP...
Việc sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống ngày càng nhiều đã
đưa đến nguy cơ khủng hoảng sinh thái hết sức trầm trọng đe dọa sự tồn vong
của con người. Mặt ô nhiễm môi trường của khủng hoảng sinh thái đã được
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi128
thông báo nhiều và đang thực sự trở thành mối đe dọa trực tiếp sự sống còn của
con người. Mặt cạn kiệt các nguồn năng lượng của khủng hoảng sinh thái lại
nhân thêm thảm họa khủng hoảng sinh thái. Trong khi đó, nhu cầu khai thác
và sử dụng năng lượng đang ngày càng tăng lên không chỉ ở các nước phát
triển cao như nhóm G8, mà tốc độ tăng về nhu cầu năng lượng ở các nước
đang phát triển dường như còn nhanh hơn. Tăng trưởng cao của nền kinh tế
Trung Quốc suốt gần ba thập kỷ qua đã khiến cho giá các nguyên liệu năng
lượng tăng đáng kể, bởi Trung Quốc hiện hàng năm tiêu thụ gần 22% lượng
dầu mỏ thế giới. Các nền kinh tế đang lên của thế giới cũng góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ sự lên giá của nguyên liệu năng lượng là dầu, khí và than. Hai thập
niên tới ở các nền kinh tế đã phát triển nhu cầu năng lượng tiếp tục tăng lên
(Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga). Một số nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh sẽ
có nhu cầu về năng lượng tăng đột biến (Trung Quốc, Đông á và Đông Nam
á, Nam Mỹ, Châu Phi, ấn Độ). Do vậy, sự bức xúc về việc tìm kiếm các
nguồn năng lượng truyền thống (dầu, than, nguyên tử) càng trở nên gay gắt.
Trong bối cảnh các nguồn năng lượng ngày càng khan hiếm dần, đe dọa
trực tiếp đến sự ổn định, đến đời sống kinh tế - xã hội mỗi gia đình, của các
quốc gia và hệ thống kinh tế thế giới, các quốc gia và cộng đồng nhân loại
hiện nay thường dùng ba giải pháp chung sau đây. Thứ nhất là tiết kiệm tối đa
việc sử dụng năng lượng; thứ hai là tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế,
và giải pháp; thứ ba, chỉ một số nước áp dụng, là dùng các biện pháp an ninh,
quân sự, kinh tế... nắm lại các nguồn nguyên liệu năng lượng chiến lược.
Để tiết kiệm năng lượng, từng nước có một cách thức riêng của mình.
Những năm 70 của thế kỷ XX khi giá dầu tăng cao, Nhật Bản đã đẩy mạnh
việc đổi mới công nghệ, giảm suất tiêu hao năng lượng xuống còn 0,7, điều
chỉnh hệ thống quản lý sản xuất, sử dụng hợp lý hơn các chi phí năng lượng.
Điều này dẫn đến hiệu quả trực tiếp, mà ai cũng thấy, là xe ôtô Nhật và nói
chung các sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản đều tiêu thụ năng lượng ít hơn
sản phẩm cùng loại của các nước như Mỹ, Liên Xô trước đây và Nga hiện nay.129
Khi giá dầu bắt đầu leo thang, Thái Lan đã khẩn cấp thực hiện kế hoạch
tiết kiệm năng lượng bằng cách đóng cửa các trạm xăng từ sau nửa đêm đến
sáng để tiết kiệm khoảng 1,26 triệu lít dầu/năm; từ 10 giờ tối tắt các biển
quảng cáo ngoài trời để tiết kiệm khoảng 23 triệu kwh điện/năm; tắt đèn
đường ở các khu vực ít xe cộ và người qua lại để tiết kiệm khoảng 69 triệu
kwh điện/năm; tăng thuế đường với các loại xe trên 2500 phân khối; v.v.. Thái
Lan đã kêu gọi đưa ra các công nghệ và sản phẩm mới tiêu hao ít năng lượng,
kêu gọi giảm chi tiêu năng lượng trong các cơ quan công quyền; tìm kiếm các
công thức mới pha chế nhiên liệu; thành lập ủy ban phối hợp, từ các bộ năng
lượng, công nghiệp và nông nghiệp nhằm xúc tiến sử dụng 3% chất diezel sinh
học thay thế vào năm 2011. Bộ năng lượng Thái Lan cho biết mức tiêu thụ dầu
sẽ giảm khoảng 30-35% nếu kết hợp được sử dụng diezel sinh học với khi tự
nhiên. ở hàn Quốc, Trung Quốc... cũng có những biện pháp tiết kiệm năng
lượng thích ứng và hữu dụng.
Việc tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế là một xu hướng được tất
cả các nước và các tổ chức quốc tế khuyến khích mạnh mẽ. Ngân hàng thế
giới, UNDP, IMF, IAEA... đều có những khuyến cáo và chính sách tích cực
nhằm thúc đẩy việc tìm kiếm và nghiên cứu các dạng năng lượng mới thay thế
các nguồn năng lượng tập trung như dầu, khí, than đá.
Những năm gần đây, hàng loạt các nghiên cứu về việc sử dụng các năng
lượng mới như năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,
năng lượng địa nhiệt và cả năng lượng sinh học đã được đẩy mạnh. Nhiều dự
án áp dụng thương mại việc sử dụng các dạng năng lượng ấy đã được triển
khai thí điểm ở các quy mô khác nhau. Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, còn
rất nhiều vấn đề khó khăn chưa được giải quyết về phương diện công nghệ, giá
thành, thói quen, mức độ tiện dụng, khả năng vận chuyển, v.v. để có thể sử
dụng thương mại các dạng năng lượng nói trên. Mỗi nước tuỳ theo điều kiện
của mình có thể lựa chọn các phương án nghiên cứu, sử dụng một hay một số
các nguồn năng lượng trong số các dạng nói trên. Một dạng năng lượng mới
được khám phá và sử dụng trong thế kỷ XX là năng lượng nguyên tử cũng đã
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi130
tạo ra những hệ quả tương tự như dầu và than đá (ô nhiễm và cạn kiệt) nhưng
mức độ còn trầm trọng hơn rất nhiều lần. Thêm vào đó, nguy cơ mất an toàn
luôn là mối đe dọa và mối lo âu thường trực của nhân loại.
Một trong những hướng nghiên cứu triển khai và đã được áp dụng ở một
số nước có trình độ công nghiệp cao là việc sử dụng nguồn năng lượng tổng
hợp nhiệt hạch, do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mang lại,
đưa đến cho loài người niềm hy vọng về một nguồn năng lượng gần như vô tận
và sạch hơn việc sử dụng năng lượng phân hạch hạt nhân. Tổng hợp hạt nhân
là quá trình ngược lại với phân hạch hạt nhân, trong đó hai hạt nhân nhẹ được
kết hợp với nhau để tạo ra một hạt nặng hơn. Nguyên tắc này đã được sử dụng
để chế tạo bm khinh khí (bm H). Nếu bm nguyên tử (bm A) dựa trên
nguyên tắc phân hạch hạt nhân có sức công phá tương đương từ hàng vạn đến
hàng chục vạn tấn thuốc nổ TNT thì bm H có sức công phá từ hàng triệu đến
hàng chục triệu tấn TNT.
Hiện nay, các nhà khoa học đang hy vọng vào loại phản ứng tổng hợp
hạt nhân Đơtêni và Triti: hai nguyên tố đồng vị của Hyđrô. Đơtêni có đến
0,35gr trong mỗi lít nước biển, có thể tạo ra đến 1 Mwh năng lượng. Triti có
thể có được bằng việc kết hợp từ 2 nơtron và 1 prôtôn bằng cách thực hiện
phản ứng hạt nhân từ một nơtron kết hợp với Lithi có rất nhiều trong đất và
nước biển. Lithi trong đất đủ để nhân loại dùng khoảng 1.500 năm, còn nếu
lấy được ra từ nước biển thì có thể dùng cho khoảng 10 triệu năm. Theo dự
báo, đến khoảng 2026 năng lượng tổng hợp nhiệt hạch hạt nhân sẽ được sử
dụng trên quy mô thương mại đồng thời với năng lượng Hyđrô. Khi đó, vấn đề
khủng hoảng năng lượng mới có con đường giải quyết và cho đến giữa thế kỷ
XXI thì vấn đề năng lượng mới được giải quyết thực sự trong thực tiễn.
Tuy nhiên, vấn đề nan giải và trong một vài thập niên tới, khả năng phát
hiện và đưa vào sử dụng các nguồn năng lượng mới của thế giới, theo đánh giá
của nhiều chuyên gia, vẫn chỉ ở mức các dự án tiền khả thi. Do vậy, sức ép về
thiếu hụt năng lượng lại tiếp tục gia tăng. Bởi vậy, dù có những quan điểm lạc131
quan nhưng vấn đề năng lượng đối với nhân loại vẫn đang là vấn đề bức xúc
cũng giống như trong cả thế kỷ XX vừa qua, nếu không muốn nói là còn căng
thẳng ít nhất trong khoảng 3/4 đầu của thế kỷ XXI.
Vấn đề năng lượng tiếp tục không còn là vấn đề chuyên môn kỹ thuật
thuần túy mà là vấn đề chính trị - xã hội, vấn đề quan hệ quốc tế. Các cuộc
chiến tranh thương mại, quân sự, ngoại giao của thế kỷ XX đều gắn chặt, hoặc
có nguyên nhân trực tiếp, từ vấn đề năng lượng. Tình trạng ấy ngày một rõ nét
và căng thẳng hơn trong quan hệ quốc tế vào đầu thế kỷ XXI này. Khu vực
châu Mỹ, ở các nước như Vênêduêla, Nicaragoa, Achentina, Mêhicô, khu vực
Trung Đông, Trung á, Biển Đông - những nơi có trữ lượng dầu mỏ lớn sẽ vẫn
tiếp tục là những điểm nóng tranh chấp của các thế lực chính trị, các quốc gia
khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà suốt hơn một thập kỷ qua, Côoét,
ápganistan, Irắc, vùng Trung á thuộc Liên Xô cũ... là những nơi bất ổn nhất.
Trong những thập niên tới, các khu vực đó vẫn là nơi nhòm ngó của các quốc
gia có tiềm lực quân sự, kinh tế và khoa học kỹ thuật, nhòm ngó với các toan
tính hất cẳng các ông chủ hiện tại, đang khống chế các nguồn năng lượng dồi
dào ở đây. Nếu giá dầu mỏ tiếp tục tăng, theo chúng tôi, không chỉ ở các khu
vực vốn đã nóng trước đây và hiện nay, mà cả biển Đông của cũng sẽ được
các cường quốc quan tâm đặc biệt hơn nữa. Nước ta cần chú ý nhiều hơn nữa
đến biển Đông và trù liệu chiến lược ứng phó với tình hình “nóng bỏng” của
nó trong một vài thập kỷ tới và tình trạng “nóng bỏng” đó có thể sẽ phải kéo
dài cho đến giữa thế kỷ XXI.
Khả năng xung đột (không chỉ về quân sự) xung quanh các trung tâm
cung cấp năng lượng của thế giới có nguy cơ gia tăng: Trung Cận Đông,
Trung Mỹ, Đông Nam á và sự bùng nổ xung đột là một khả năng cần được
tính đến. Khả năng khai thác theo các công nghệ hiện có và với các mỏ có trữ
lượng như đang và sẽ khai thác có thể tăng sản lượng tối đa là gấp 2 lần.
Trong khi đó, nhu cầu năng lượng do sự phát triển của công nghiệp và dân số
đòi hỏi phải tăng sản lượng ít nhất gấp 4 lần. Tình trạng đó làm cho sự căng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi132
thẳng về năng lượng trong vài thập kỷ tới sẽ tăng theo cấp số nhân. Nếu như
suốt 30 năm qua mới có một đợt khủng hoảng giá dầu lớn, chấn động toàn thế
giới thì trong vài thập kỷ tới có thể cứ 10 năm hay thậm chí 7 năm sẽ có một
lần chấn động thế giới bởi giá cả năng lượng. Nếu như chấn động lần khủng
hoảng này còn ở mức vừa phải thì các cơn chấn động sau sẽ mạnh hơn nhiều
lần, lâu dài hơn, phức tạp hơn, gấp gáp hơn cũng sẽ là điều dễ hiểu. Trong bối
cảnh đó, nước ta càng cần xây dựng một chiến lược an ninh năng lượng
cho quốc gia đến 2050.
2.3. Nhóm những vấn đề toàn cầu liên quan trực tiếp đến con
người, đến sự tồn tại của cá nhân con người
Đó là vấn đề về “chất lượng con người” - vấn đề tăng cường sức khoẻ,
phát triển năng lực trí tuệ và duy trì đạo đức, v.v., nhằm đảm bảo một lối sống
lành mạnh, một sự phát triển bình thường cả về tinh thần và thể lực. ý nghĩa
triết học và xã hội của vấn đề này quan trọng tới mức có thể nói tới một bước
ngoặt quay trở lại với con người trong toàn cầu học hiện đại. Chính nó khắc
phục các quan điểm phiến diện chỉ xem xét những vấn đề toàn cầu như là kết
quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, kỹ thuật đơn thuần và hi sinh con người.
Trong điều kiện hiện nay, nếu không có phẩm chất người tương xứng
thì không thể có và không thể áp dụng được các công nghệ sạch về mặt sinh
thái; không thể có thái độ hợp lý và khoa học đối với các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; không thể xác lập được một trật tự kinh tế công bằng và không
thể hình thành được các mục đích của loài người hiện đại như một thể thống
nhất, như một chỉnh thể. Sau hết, cần xây dựng và hình thành được ý thức
nhân văn toàn cầu cho con người thông qua giáo dục, thông qua việc phổ biến,
trang bị kiến thức cho từng người và cho tất cả các thành viên của xã hội.
Trong nhóm vấn đề toàn cầu này, chúng tui tập trung nghiên cứu 4 vấn đề
chính, đó là vấn đề lương thực, thực phẩm, vấn đề dân số, bệnh tật và vấn đề di dân.
2.3.1. Vấn đề dân số133
Dân số, cùng với cách sản xuất và hoàn cảnh địa lý, là những
yếu tố cơ bản quan trọng nhất của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội nói
riêng và của sự phát triển xã hội nói chung. Ngày nay, khi sự vận động của xã
hội loài người đang bước lên một nấc thang mới - toàn cầu hóa và hội nhập,
trước hết là hội nhập về kinh tế, thì dân số vẫn tiếp tục được coi là một trong
những nhân tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển bền vững. Để đạt
được mục tiêu toàn cầu hóa và phát triển bền vững cần có một cơ sở dân
số thích hợp trong sự hài hòa với các nhân tố khác như kinh tế, môi trường,
khoa học - công nghệ. Đây là một vấn đề rất phức tạp và nan giải của quá
trình toàn cầu hóa theo hướng phát triển bền vững của xã hội.
Dân số, ngay từ buổi đầu của lịch sử, đã đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay trong những
tác phẩm triết học đầu tiên của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi sự tồn tại
của những con người sống và sự tái sản xuất ra bản thân con người bằng cách
sinh con đẻ cái ... (tức là dân số) là những tiền đề lịch sử đầu tiên. Sự hình
thành con người và sự phát triển dân số cũng có một quá trình lịch sử và luôn
gắn liền với sự phát triển của xã hội.
So với tất cả các loài sinh vật khác trên Trái Đất, loài người là một loài
vật đặc biệt. Cái đặc biệt của con người được thể hiện từ cách xuất hiện đến
cấu trúc cơ thể; từ cách sinh sản đến cách kiếm sống; từ tổ chức quần thể (xã
hội) đến địa bàn và không gian sinh sống.
Người hiện đại (Homo Sapiens - người khôn ngoan) tiến hóa từ giống
người vượn (Australopithecus) sống cách đây 3,5 triệu năm (theo một số tài
liệu gần đây thì có thể còn xa hơn nhiều, khoảng 6 triệu năm), ở miền Đông
và Nam châu Phi, trong những điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt như
động đất, núi lửa với nhiều chất phóng xạ urani được thoát ra từ lòng đất ...
Chính những điều kiện khắc nghiệt đó của tự nhiên đã làm tăng nhanh số
lượng các đột biến và đẩy nhanh cường độ chọn lọc tự nhiên của người vượn,
tạo ra cho nó những khác biệt cơ bản về cấu trúc (cả bên trong lẫn bên ngoài)
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi134
và chức năng. Nhờ đó, con người tách được ra khỏi thế giới động vật, trở
thành loài độc lập, tồn tại trong tự nhiên dưới dạng một quần thể sinh vật - xã
hội đặc thù - đó là xã hội loài người.
Con người bước vào lịch sử bằng cả hai quá trình: một là, quá trình tác
động lên tự nhiên và tác động lẫn nhau để tạo ra cách sản xuất - nền
tảng phát triển của xã hội loài người và, hai là, quá trình tái sản xuất ra chính
bản thân con người để tạo ra một số lượng người (dân số) cần thiết cho sản
xuất và tái sản xuất mở rộng. Đó là những quá trình song trùng và đều là
những tiền đề đầu tiên của lịch sử xã hội.
Quá trình sản xuất xã hội và quá trình tái sản xuất ra con người gắn bó
chặt chẽ với nhau trong suốt tiến trình vận động không ngừng của lịch sử, từ
thuở hồng hoang cho đến ngày nay. Sự gia tăng dân số phụ thuộc vào trình độ
phát triển xã hội, trước hết là vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
vào nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực, vào trình độ nhận thức của con
người, v.v.. Đến lượt mình, sự gia tăng dân số lại có ảnh hưởng tích cực hoặc
tiêu cực đến sự phát triển của xã hội.
Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội cho đến những năm 1965 -
1970, tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao dần và
đạt đến đỉnh điểm cao nhất hai còn gọi là sự bùng nổ dân số vào giai đoạn
này. Sau đó, tốc độ gia tăng dân số chậm dần.
Kể từ khi con người tách ra khỏi thế giới động vật, rồi sau đó trải qua
khoảng một triệu năm của thời kỳ đồ đá cũ, số lượng tổ tiên của con người
hiện đại (Homo Sapiens) chỉ mới tăng lên 150 nghìn người. Trong giai đoạn
phát triển tiếp theo, dân số thế giới tăng dần, cho đến đầu thời kỳ đồ đá mới
đạt tới khoảng 15 triệu người45. Tuy nhiên, so với các giai đoạn phát triển sau
này, tốc độ gia tăng dân số như vậy vẫn còn quá thấp. Nếu như việc tăng gấp
đôi dân số thế giới ở thời kỳ đồ đá mới diễn ra trong 7500 năm, trong thiên
niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên 900 năm, thì ở thời đại công nghiệp là 39
45 Xem: Yu.V.Yakovets. Lịch sử các nền văn minh. M: Vladar, 1995.135
năm, cụ thể, năm 1960 là 3 tỷ người và đạt 6 tỷ người vào năm 1999 và vào
cuối năm 2002 là 6,211 tỷ người, năm 2005 đạt 6,5 tỷ, tăng trưởng đúng 1 tỷ
so với năm 1993 và sẽ lên đến 7 tỷ vào năm 2012.
Nếu xét về tỷ lệ gia tăng dân số trên toàn cầu, thì thấy rằng, tỷ lệ đó đạt
cao nhất vào những năm 1965 - 1970, với tỷ lệ là 2,04%/năm. Đó là giai đoạn
bùng nổ dân số của thế giới.
Sau giai đoạn “bùng nổ dân số”, dân số toàn cầu lại có xu hướng giảm
dần. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc (phương án trung bình) nếu giai đoạn
năm 2000 - 2005 tỷ lệ phát triển dân số toàn cầu hàng năm là 1,20% thì giai
đoạn 2015 - 2020 là 0,95%; giai đoạn 2025 - 2030 là 0,79% và giai đoạn 2040
- 2050 sẽ là 0,38%46. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng dân số hàng năm ở các khu
vực khác nhau trên thế giới rất khác nhau: cao hơn. Đối với một nước cùng kiệt như nước ta, tăng trưởng kinh tế là tiền đề và
là một trong những cơ sở để giải quyết có hiệu quả hơn các vấn đề toàn cầu.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế phải nằm trong tổng thể những mục tiêu của
chiến lược phát triển bền vững.
Nhờ có đường lối đúng đắn mà trong gần 20 năm qua, kinh tế Việt Nam
liên tục phát triển. GDP giai đoạn 1992 - 1997 tăng bình quân trên 8%. Gia
đoạn 1997 - 2000, mặc dù kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động phức
tạp, khủng hoảng tài chính diễn ra ở nhiều nước châu á nhưng Việt Nam vẫn
giữ được mức tăng trưởng khá nhanh, từ 6,0% năm 1999 lên 7,0% năm 2002,
(bình quân 7% năm) và có xu hướng tăng mạnh hơn trong những năm tiếp
theo. Tổng sản phẩm quốc Nội năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết
cấu hạ tầng xã hội và năng lực sản xuất đều tăng nhanh. Văn hoá xã hội có
nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện.
Điều nổi bật ở Việt Nam là thành tựu về phát triển kinh tế gắn chặt với
thành tựu về phát triển con người. Để phát triển nhanh và bền vững, Đảng ta đã
xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân
lực của nước ta ngày càng được nâng cao. Theo điều tra năm 1999, 91% dân số
từ độ tuổi 10 trở lên đã biết đọc, biết viết, một tỷ lệ cao đối với một nước đang
phát triển. Việc tăng trưởng kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người thể hiện rõ rệt ở chỉ số HDI cao hơn chỉ số tăng GDP. Trong thứ
tự xếp hạng các quốc gia trên thế giới, thứ hạng về chỉ số HDI của Việt Nam
cao hơn nhiều so với thứ hạng về GDP tính theo đầu người. Theo “Báo cáo phát
triển thế giới năm 2005” của ngân hàng thế giới thì chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam tăng lên hàng năm. Cụ thể là: năm 1990: 0,610; năm
1995: 0,649; năm 2000: 0,686; năm 2002: 0,69177.
Còn theo “Báo cáo phát triển con người (HDR)” của UNDP qua các năm
thì trong khi GDP tính theo đầu người Việt Nam đứng thứ 132 hay 133 thì về
chỉ số HDI, Việt Nam được xếp như sau: năm 1999 xếp thứ 110/174 nước; năm
77 “Báo cáo phát triển thế giới năm 2005” của Ngân hàng Thế giới (WB).243
2000: 108/174; năm 2001: 101/162; năm 2002: 109/173; năm 2003: 109/175;
năm 2004: 112/17778 .
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm sự nghiệp chăm sóc sức
khoẻ nhân dân và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là nạn đại
dịch HIV/AIDS. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân vừa thể hiện tinh ưu
việt của chế độ ta, vừa là biện pháp phát huy nguồn lực con người phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta đã nỗ lực phấn đấu
giảm tỷ lệ mắc bệnh, chết bệnh, bảo đảm mọi người dân được cung cấp dịch
vụ y tế cơ bản. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, đặc
biệt trong lĩnh vực y tế dự phòng. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
giảm từ 38% năm 1995 xuống 33-34% năm 2000; tỷ lệ tử vong của trẻ em
dưới 5 tuổi giảm từ 8,1% xuống còn 4,2%. Tuổi thọ trung bình của người dân
từ 65,2 tuổi năm 1991 lên 68,3. Đó là những chỉ số khá cao đối với một nước
đang phát triển.
Việt Nam cũng đã đạt những thành tích đáng khích lệ về phòng chống
các dịch bệnh truyền nhiễm. Chúng ta đã khống chế ở mức thấp nhất hoặc
tương đối thấp tỷ lệ mắc và chết vì các bệnh tả, thương hàn, dịch hạch, viêm
gan B, viêm não do virus, sốt xuất huyết. Đặc biệt, Việt Nam đã thanh toán
được bệnh bại liệt và trong nhiều năm qua duy trì được kết quả này. Vừa qua,
Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới đẩy lùi được đại dịch viêm đường hô
hấp cấp (SARS), tạo niềm lạc quan cho cả thế giới đối với khả năng khống chế
căn bệnh nguy hiểm này. Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong công tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu. Chúng ta đang triển khai chương trình quốc gia về y tế
với 10 mục tiêu cơ bản, đang thực hiện có kết quả chiến lược quốc gia về chăm
sóc sức khoẻ sinh sản, có nhiều biện pháp phát triển y tế phổ cập, đưa các dịch
vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đến tận người dân ở các vùng sâu,
vùng xa, đã sớm nhận thức về nguy cơ đại dịch HIV/AIDS đối với sức khoẻ
cộng đồng và vận mệnh quốc gia. Việt Nam đã sớm thành lập ủy ban quốc gia
78 “Báo cáo phát triển con người (HDR) của UNDP” của các năm.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi244
phòng chống HIV/AIDS. Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức phòng chống
căn bệnh thế kỷ được tiến hành thường xuyên, rộng khắp với nhiều hình thức.
Chúng ta kết hợp chặt chẽ công tác phòng chống HIV với công tác phòng
chống các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy...
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm có chiến lược về dân số và
thực hiện thành công chính sách dân số. Những số liệu sau đây nói lên kết quả
thực hiện chính sách dân số ở Việt Nam. Từ năm 1979 đến 1989 dân số nước
ta tăng 22%. Từ 1989 đến 1999 mức tăng dân số còn 17%, giảm được 5%.
Năm 1999, Liên Hợp Quốc đã tặng giải thưởng dân số cho Việt Nam để ghi
nhận thành công này. Tổng tỉ suất sinh đã giảm từ 3,8 con trên một phụ nữ
năm 1989 xuống còn 2,28 con năm 2002. Từ 1991 đến 2000 tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tốc độ tăng dân số đến năm
2010 dự kiến còn khoảng 1,1%. Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010 được
xây dựng nhằm giải quyết đồng bộ vấn đề dân số, cả quy mô, cơ cấu dân số,
phân bố dân cư và chất lượng dân số, tiến tới ổn định dân số vào giữa thế kỷ
XXI. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược dân số ở Việt Nam là nhằm khuyến
khích thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
tạo điều kiện nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới
ổn định dân số ở mức hợp lý, từng bước giải quyết có hiệu quả việc phân bố
dân cư, cơ cấu và chất lượng dân số. Ngoài thành công về giảm tỷ lệ phát triển
dân số, Việt Nam còn đạt được những thành công quan trọng có ý nghĩa nhân
văn cao như giảm tỉ lệ trẻ chết, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tỉ lệ mẹ tử vong79.
79- Giảm nhanh và rõ rệt tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi từ 14,7% trong thập niên 60 xuống còn 11,8% ở thập
niên 70; 7% ở thập niên 80; 4,5% trong thập niên 90 thế kỷ XX.
- Giảm tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 8,2% ở thập niên 80 xuống còn khoảng 6,1% tại thập niên 90 thế
kỷ XX.
- Giảm số trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng từ 50% ở thập niên 80 xuống còn 44% ở thập niên 90 thế kỷ
XX.
- Tỷ lệ tử vong ở người mẹ đã giảm từ 400/100.000 ca đẻ tại thập niên 50 xuống còn 200/100.000 ở thập
niên 80 và khoảng 137/100.000 trong thập niên 90 thế kỷ XX.245
4.1.3. Thành tựu bước đầu trong vấn đề bảo vệ môi trường
Công tác bảo vệ môi trường ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm hơn. Quan điểm cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đại hội VIII
nêu lên là: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển
văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”80.
Đại hội IX nhấn mạnh hơn nữa vấn đề bảo vệ môi trường trong quan điểm phát
triển: “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn
đa dạng sinh học”81. Ngày 26 tháng 5 năm 1998, Bộ Chính trị ra “Chỉ thị số 36-
CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”, trong đó nêu rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề
sống còn của đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn
liền với đấu tranh xoá đói giảm cùng kiệt ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hoà
bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Trong nhiều năm nay, Nhà
nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật và thể chế
về vấn đề bảo vệ môi trường. Gần đây nhất, ngày 17-8-2004 Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (gọi tắt
là Chương trình Nghị sự 21). Nội dung chủ yếu của Định hướng này là “nhằm
phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”82.
Tuy chưa như mong muốn nhưng nhờ công tác tuyên truyền và giáo dục
được tiến hành thường xuyên nên nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường của
đại bộ phận nhân dân có được nâng lên. Chính phủ đã quyết định đầu tư 2,5 tỷ
USD để trồng lại rừng, quyết định đóng cửa rừng tự nhiên... Tỷ lệ che phủ của
rừng được nâng lên 33,2% đất tự nhiên. Đến nay, nước ta đã khoanh định được
101 khu bảo tồn sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học, di sản văn hoá - lịch sử
với diện tích 2,1 triệu ha. Nước ta cũng tích cực tham gia kí kết và thực hiện
80 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr.85.
81 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr.163-164.
82 Bộ Kế hoạch và đầu tư. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Hà Nội, 2004, tr. 3.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi246
các điều ước quốc tế có liên quan đến môi trường và bảo vệ môi trường. Trong
nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều nỗ lực và có
những thành tựu, tiến bộ đáng ghi nhận trong việc ngăn ngừa tình trạng suy
thoái môi trường ở các khu công nghiệp, các khu vực đông dân cư, chật chội ở
các thành phố lớn và một số vùng nông thôn. Chúng ta đã có những biện pháp
tích cực có hiệu quả khắc phục sự cố môi trường do thiên tai, lũ lụt gây ra ở
miền Trung và ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chúng ta đã thực hiện một
số dự án quan trọng về bảo vệ môi trường như xây dựng các vườn quốc gia, các
khu rừng cấm, thực hiện các đề án trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, bảo
tồn các nguồn gien, xây dựng các công trình làm sạch môi trường. Nhiều công
ty, xí nghiệp đã coi trọng hơn việc áp dụng công nghệ và quy trình sản xuất tiên
tiến, ít chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường (công nghiệp sạch). Chúng ta đang
nỗ lực thực hiện các dự án cụ thể như trồng rừng để vài ba năm tới nâng độ rừng
che phủ lên 38,39%; thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn, bảo đảm đến năm 2005, 60% số dân nông thôn được cung cấp nước
sạch; hoàn thành các dự án cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, v.v..
Ngoài việc giải quyết vấn đề môi trường với những thành tựu bước đầu
vừa nêu, chúng ta còn tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc giải quyết
những vấn đề toàn cầu mang tính chính trị - xã hội sâu sắc.
4.1.4. Tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm quốc tế
Việt Nam cũng là một trong những nước tham gia tích cực vào cuộc đấu
tranh chống tội phạm quốc tế, đặc biệt các tội phạm có tổ chức, các tổ chức
maphia liên quốc gia, các tội phạm liên quan đến ma túy, những hoạt động
buôn người, các hình thức buôn lậu xuyên quốc gia có quy mô lớn, các hoạt
động rửa tiền, những hoạt động khủng bố, v.v.. Việt Nam đã tham gia Tổ chức
cảnh sát quốc tế (INTERPOL). Chúng ta đã tích cực phối hợp với nhiều quốc
gia và lãnh thổ trong tổ chức này như Hoa Kỳ, Pháp, úc, Trung Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông, Lào, Campuchia. Trong cuộc đấu tranh chống tội phạm247
quốc tế, đã có những tấm gương về sự mưu trí, dũng cảm, quên mình của các
chiến sĩ cảnh sát Việt Nam được bạn bè quốc tế khâm phục, đánh giá cao.
Những năm gần đây, chủ nghĩa khủng bố có chiều hướng phát triển, các
tổ chức khủng bố tăng cường hoạt động, trở thành một trong những nhân tố đe
dọa an ninh và xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển của thế giới. Chủ nghĩa
khủng bố gây tổn thất sinh mạng, tài sản, đe dọa cuộc sống bình yên của hàng
ngàn, hàng vạn người dân lương thiện. Đặc biệt nghiêm trọng là vụ khủng bố
ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở Mỹ đã gây ra những tổn thất khôn lường cho
nước Mỹ và cho thế giới. Bọn khủng bố chẳng những đã giết hại hàng ngàn
người dân vô tội mà còn tạo cơ hội cho các thế lực phản động cực đoan mượn
cớ “chống khủng bố” để đẩy mạnh việc thực thi chính sách bá quyền hiếu
chiến của chúng. Chúng ta đã kịch liệt lên án vụ khủng bố 11 tháng 9. Trong
điện chia buồn gửi tổng thống J.W.Bush, Chủ tịch Trần Đức Lương nhấn
mạnh: “Việt Nam phản đối những hành động khủng bố gây chết chóc đau
thương cho dân thường”. Chúng ta thường xuyên lên án hoạt động của tất cả
các tổ chức khủng bố đã gây ra các vụ 11 tháng 9, các vụ khủng bố ở Liên
bang Nga, ở Inđônêxia, ở Philippin, Arập Xêút và nhiều nơi khác. Việt Nam
đòi hỏi phải lên án và loại trừ tất cả các loại hoạt động khủng bố, kể cả khủng
bố nhà nước như hành động dùng vũ lực đàn áp các cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, chẳng hạn hành động đàn áp đẫm máu cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân Palestin. Chúng ta phê phán việc quy các phong trào đấu tranh giải
phóng chính nghĩa là hoạt động khủng bố. Chúng ta cũng kiên quyết phê phán
việc lợi dụng chống khủng bố để đàn áp cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của
các dân tộc. Cùng với đa số các quốc gia, các chính phủ, chúng ta đòi hỏi cuộc
đấu tranh chống khủng bố phải được tiến hành trong khuôn khổ luật pháp
quốc tế và không được xâm phạm đến quyền của các giai cấp và các dân tộc bị
áp bức đấu tranh cho độc lập tự do.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top