Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

MỤC LỤC
MỤC LỤC Trang 1
Chương I KHÁI QUÁT CHUNG Trang 2
1. Thi pháp học – Khái niệm và các phương pháp nghiên cứu
Trang 2
2. Thời gian nghệ thuật trong nghiên cứu thi pháp học

Trang 3
Chương II NGÔN TỪ VÀ THI PHÁP TRONG “THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN KIỀU”

Trang 5
I.Thi pháp Truyện Kiều - một tác phẩm đặc sắc của Giáo Sư Trần Đình Sử
Trang 5
II. Ngôn từ và thi pháp trong “ Thời gian nghệ thuật của Truyện Kiều”
Trang 7
1. Khám phá thời gian dưới nhiều góc độ Trang 7
2. Thống kê các tín hiệu thẩm mỹ nổi bật về thời gian
Trang 9
3. Thời gian nghệ thuật được nghiên cứu bằng phương pháp so sánh, đối chiếu
Trang 12



Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG

1. Thi pháp học – Khái niệm và các phương pháp nghiên cứu.
Thi pháp học không phải là một khái niệm mới trong các hoạt động văn học. Hiểu một cách khái quát nhất chúng ta có thể quan niệm: Thi pháp học là một bộ môn khoa học, nghiên cứu các hình thức nghệ thuật của văn học, bao gồm: Thơ, tiểu thuyết, văn xuôi. Nghiên cứu thi pháp học là hướng nghiên cứu lớn giúp chúng ta hiểu được các giá trị văn hoá, và cũng là con đường tiếp cận tác phẩm văn học rất đa dạng. Đồng thời, nếu chúng ta biết vận dụng phương pháp này sẽ góp phần đưa các nghiên cứu văn học đến những tìm tòi mới.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp bắt nguồn từ cơ sở là xem xét tác phẩm không chỉ như một văn bản ngôn từ, một tổng cộng của các yếu tố xác định mà như một chỉnh thể của thế giới nghệ thuật mang tính quan niệm. Chúng ta có thể xem xét các yếu tố lặp đi lặp lại trong tác phẩm, từ đó xây dựng những mô hình về hình thức văn học, tìm cách đặt tên cho các thi pháp đó, đối chiếu bối cảnh văn hoá để đối chứng. Chúng ta cũng cần tiến hành nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu thi pháp học trong mối liên hệ với ngôn ngữ học, ký hiệu học, văn hóa học, tâm lý học, nhân loại học… Ngoài ra, có cả việc nghiên cứu, so sánh các thể loại, các biện pháp nghệ thuật, phong cách văn học… Tuy nhiên, yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của nghiên cứu thi pháp là xuất phát từ cấu tạo ngôn ngữ của văn bản để từ đó khám phá ra các hình thức bên trong. Bởi lẽ, văn học lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật. Mọi sáng tạo của nhà văn đều nằm trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là sản phẩm của ý thức chủ thể, là phát ngôn của chủ thể, gắn với thế giới các chủ thể vừa là sự miêu tả, biểu hiện của thế giới khách thể. Với ý nghĩa này, tìm hiểu bất kỳ yếu tố thi pháp nào cũng phải xuất phát đầu tiên từ việc tìm hiều ngôn ngữ.
2. Thời gian nghệ thuật trong nghiên cứu thi pháp học
Các phạm trù của thi pháp hết sức đa dạng. Các phạm trù thi pháp truyền thống gồm có cốt truyện, kết cấu, thể loại, lời văn. Ngoài ra, có những phạm trù mới như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian, kiểu tác giả, chi tiết nghệ thuật. Gắn với đề tài lựa chọn chúng tui xin trình bày một cách ngắn gọn vấn đề thi pháp về “Thời gian nghệ thuật”. Trong triết học, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian chính là cách tồn tại của thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật không mang tính khách quan mà mang tính chủ quan, gắn với cảm nhận của con người. Thời gian nghệ thuật còn gắn với việc tác giả tổ chức chất liệu. Chất liệu văn học sẽ ghi khắc, in dấu, cố định diễn trình thời gian. Ngoài ra, thời gian nghệ thuật còn là biểu tượng nên nó mang tính quan niệm, tư tưởng của nhà văn về cuộc sống. Thời gian nghệ thuật là thời gian tổ chức lại từ thời gian tự nhiên, do vậy các tác giả văn học có thể sử dụng những cách thức như: Tìm lược, hãm chậm, kể lướt, kể đan xen, chồng chất… Chúng ta có thể xem xét về biều hiện của thời gian nghệ thuật trong tác phẩm thông qua hệ thống từ ngữ chỉ thời gian: Năm, tháng… tuổi nhân vật, hoa quả theo mùa, các biểu tượng về ngọn núi, biển cả, các chiều thời gian: Hiện tại, quá khứ, tương lai…
Hình thức thời gian trong văn học trung đại có sự khác biệt với thời gian trong thần thoại, sử thi, cổ tích cũng như văn học cận hiệu đại. Theo Likhachép, thời gian trần thuật trong văn học trung đại phụ thuộc vào mật độ sự kiện nhiều hay ít, thời gian trần thuật chưa phát triển, thời gian khép kín trong sự kiện, có tính đơn hướng, lời kể đều đặn, lặng lẽ.
Với những cách hiểu về khái niệm thi pháp, vai trò của ngôn từ trong nghiên cứu thi pháp và phạm trù thời gian nghệ thuật trong nghiên cứu thi pháp như trên, trong khuôn khổ bài tập tiểu luận này, chúng tui xin tìm hiểu:
Ngôn từ và thi pháp trong “Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều”.

Chương II: NGÔN TỪ VÀ THI PHÁP TRONG “THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN KIỀU”

Không một người Việt Nam nào không biết đến Truyện Kiều, những bài hát ru trong Truyện Kiều, những câu bói Kiều, lảy Kiều dường như đã thấm sâu vào máu thịt, vào tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam. Từ xưa đến nay, từ những nhà phê bình văn học cho đến những người chỉ đơn giản là yêu mến, là tự hào về Truyện Kiều đã tốn không ít giấy mực để phân tích, chiêm nghiệm.... Thi pháp Truyện Kiều của Giáo sư Trần Đình Sử là một trong những công trình đầy tâm huyết và giá trị nhu thế.

I.Thi pháp Truyện Kiều - một tác phẩm đặc sắc của Giáo Sư Trần Đình Sử
Trước hết chúng tui xin tóm lược một cách vắn tắt nhất nội dung chính của cuốn Thi pháp Truyện Kiều.
Công trình nghiên cứu “Thi pháp Truyện Kiều” bao gồm 6 chương.
Chương I: Những chặng đường nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều. Trong chương này tác giả đã tổng kết lại những công trình nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều qua từng thời kỳ, từ những công trình của Phong Tuyết chủ nhân Thập Thanh Thị , Mộng Liên Đường chủ nhân, Đào Nguyên Phổ đến những bài viết của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Việt Hoài… và những nghiên cứu của những năm 1940, sau cách mạng Tháng Tám và những năm 1980 Từ đó tác giả đã tổng kết: “Nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều thực chất là nghiên cứu thế giới nghệ thuật, hệ thống nghệ thuật của tác phẩm”. Đó là một hướng nghiên cứu mở với rất nhiều cách tiếp cận khác nhau: ngữ văn học, ngôn ngữ học, phong cách học, ký hiệu học, hiện tượng học... Từ nghiên cứu thi pháp mới có thể vạch ra thực chất sáng tạo của Nguyễn Du và mới xác định cụ thể vai trò, địa vị của tác phẩm Truyện Kiều trên tiến trình văn học cổ điển Việt Nam.
Chương II: Truyện Kiều và văn hóa, văn học Trung Quốc. Ở chương này tác giả đã đi từ sự thật lịch sử đến sáng tạo tác phẩm Truyện Kiều, đặt Truyện Kiều trong truyền thống tiểu thuyết tài tử giai nhân cũng như đặt Truyện Kiều như một đối tượng của văn học so sánh, trong đó tác giả so sánh với Kim Vân Kiều truyện về chủ đề, cốt truyện, nhân vật, phong cách học.
Chương III: Truyện Kiều và văn hóa, văn học Việt Nam. Trong chương này tác giả so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm truyện Nôm và ngâm khúc để khẳng định xét về hình thức Truyện Kiều đã phát triển những nét mới trong thi pháp truyện Nôm và ngâm khúc lên một trình độ cao chưa từng có.
Chương IV: Truyện Kiều - Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, tác giả đã khai thác ở các khía cạnh:Tư tưởng, nhân vật, cách kể chuyện; cái nhìn nghệ thuật về con người; không gian nghệ thuật; thời gian nghệ thuật; hình tượng tác giả.
Chương V: Mô hình tự sự và ngôn ngữ nghệ thuật bao gồm 11 phần: Hình thức tự sự; mô hình cốt truyện, thể loại đến khuynh hướng cảm thương chủ nghĩa; chất thơ, trữ tình; độc thoại nội tâm và cấu trúc tự sự; giọng điệu nghệ thuật cảm thương; màu sắc; đối ngẫu; phép sóng đôi; ẩn dụ; điển cố; nghệ thuật ngôn từ.
Chương IV, cũng là chương cuối tác giả khẳng định sức sống của Truyện Kiều khi đặt trong tương quan với truyện Nôm sau nó, trong đời sống văn học sau Truyện Kiều và trong hoạt động tiếp nhận văn học.
Trong toàn bộ những nội dung của cuốn sách, chúng tui xin lựa chọn vấn đề về “Thời gian nghệ thuật” trong chương IV: Truyện Kiều - Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du

II. Ngôn từ và thi pháp trong “ Thời gian nghệ thuật của Truyện Kiều”
Trong chương IV, viết về thế giới nghệ thuật của Truyện Kiều - Nguyễn Du, sau phần viết về tư tưởng, nhân vật, cách kể chuyện; cái nhìn nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, tác giả đã dành khoảng gần 20 trang sách để viết về thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều.
2. Phương pháp nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong thi pháp Truyện Kiều
1. Khám phá thời gian dưới nhiều góc độ (Em xem lại đề mục?)
Trong khi nghiên cứu thời gian trong Truyện Kiều Giáo sư Trần Đình Sử đã khái quát và tổng kết được rất nhiều quan niệm về thời gian của Nguyễn Du.
Trước hết, tác giả khẳng định trong Truyện Kiều có quan niệm về thời gian định mệnh. Cơ sở của thời gian định mệnh này xuất phát từ tư tưởng định mệnh, tác giả đã khẳng định “Trong các truyện Nôm Việt Nam, Truyện Kiều là thể hiện rõ nhất cho tư tưởng định mệnh”. Theo tác giả: “Đặc điểm của thời gian định mệnh là tất cả mọi sự kiện, chuyển biến kết cục của đời người đều đã được định sẵn từ trước như một tất yếu khắc nghiệt”. Các nhân vật dự báo định mệnh trong truyện “chiếm một vị trí không gian bên lề cuộc sống, giữa thực tại và hư vô”. Thời gian này cũng chỉ tồn tại trong quan niệm của nhân vật, không tồn tại trong thời gian hành động và sự kiện. Các lực lượng siêu hình vì thế nên lý giải như là một biểu hiện của đời sống nội tâm thần bí của nhân vật.
Bên cạnh thời gian định mệnh là thời gian con người, “ thước đo sự tự thực hiện của con người phù hợp với địa vị xã hội - lịch sử của họ”. Để sáng tạo thời gian con người này Nguyễn Du đã “ nhìn nhân vật từ phía nhân vật, từ phía những mục đích, khát vọng, xu hướng hành động của chúng”. Tác giả đã dẫn chứng thời gian của Kiều là thời gian của những kỷ niệm, ước mơ, mong đợi… Hiện tại của Thúy Kiều - Kim Trọng là nỗi lòng say mê và hành động theo tiếng gọi của tình yêu mãnh liệt, trong trắng.
Đặc sắc hơn, tác giả đã phát hiện ra trong Truyện Kiều có nhịp điệu thời gian sự kiện. Các sự kiện gấp khúc, chồng chéo “sự kiện này chưa xong, sự kiện kia đã tới, gối đầu lên nhau, chồng chất, xô đẩy nhau”. Thời gian sự kiện này đã phản ánh tính chất dang dở, không trọn vẹn của đời sống cũng như của Kiều và tô đậm tính chất vô lý, tàn nhẫn, phũ phàng của các thế lực đen tối. Qua đó, tạo cảm giác không lý giải nổi của các sự kiện, biến cố trong Truyện Kiều.
Ngoài ra, tác giả còn phát hiện quan niệm thời gian tuần hoàn trong Truyện Kiều. Thời gian tuần hoàn là “thời gian có thể đảo ngược. Vận động chủ
yếu là sự biến hoá, lặp lại cái đã có. Quá khứ không mất đi mà tồn tại trong
dạng khác. Tương lai là sự lặp lại hay kéo dài cái đã qua hay hiện có”.
Theo thời gian trong Truyện Kiều có thời gian ba kiếp. Kiếp trước không mang nội dung cụ thể tuy được nhắc nhiều lần. Kiếp này là hiện tại của Kiều. Kiếp sau là cuộc sống sau của Kiều sau cái chết ở sông Tiền Đường. Đạm Tiên là một hình ảnh của quá khứ nhưng cũng là hình ảnh của tương lai. Dự cảm của Kiều là sự lặp lại một kiếp Đạm Tiên trong đời mình. Kiều hay nhớ nhung nhưng chưa biết hồi tưởng. Do vậy, tác giả khẳng định thời gian tuần hoàn không gợi ra được tư tưởng về sự phát triển. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định chỗ sâu sắc nhất trong cảm thụ thời gian của Nguyễn Du là đã thể hiện tính không đảo ngược của những mất mát, đau khổ của con người. Sau 15 năm lưu lạc, sau cái chết trẫm mình ở sông Tiền Đường “Kiểu vẫn sống một cuộc đời
mạch quan niệm chung đó nhưng vẫn có những khác biệt. Tác giả đã phát hiện “Kiều có lẽ là nhân vật suy nghĩ về tương lai nhiều nhất trong truyện Nôm” và “chỗ cảm thụ sâu sắc nhất trong cảm thụ thời gian của Nguyễn Du là đã thể hiện tính không đảo ngược của những mất mát, đau khổ của con người…". Cũng theo tác giả: “Điểm nổi bật của Truyện Kiều so với nhiều truyện Nôm khác là đã có một hệ thống tính thời gian: năm, tháng ngày, mà đáng kể nhất là thời gian bằng ngày, buổi”.
Tuy nhiên những so sánh quan trọng nhất là khi tác giả so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Về việc xây dựng tương quan giữa thời gian và sự kiện, thời gian đã so sánh. “Thanh Tâm Tài nhân kể chuyện, trình bày sự kiện như một chuỗi sự việc liên tục, giản đơn, theo kiểu: “Than xong, khách liền đi mua quan tài”…đây là một lối kể chuyện cực kỳ tẻ nhạt… hầu như không có cả cảm giác về nhịp điệu thời gian bốn mùa, không có mối liên hệ giữa cảm xúc của nhân vật và thời tiết…” Với Nguyễn Du thì …“đã xây dựng một dòng thời gian thiên nhiên nhịp nhàng tuôn chảy”. Tác giả đã chứng minh bằng buổi du xuân trong Kim Vân kiều truyện vỏn vẹn mấy dòng nhưng Nguyễn Du đã tả cảnh trong 20 dòng với những câu thơ đẹp, giàu sức biểu cảm.
Giáo sư còn so sánh về cách tính thời gian giữa Kim Vân kiều truyện và Truyện Kiều. Dẫn ra các sự kiện, tác giả đã khẳng định thời gian sự việc theo lời kể của Thanh Tâm tài nhân hết sức rõ ràng nhưng trong Truyện Kiều thời gian mang tính ước lệ, mùa thu có khi kéo dài đến 5, 6 tháng. Nhiều đoạn trong Kim Vân kiều truyện không nói rõ về thời gian là mùa nào, Thanh Tâm tài nhân không có cảm nhận về thời gian nhưng trong Truyện Kiều lại hết sức rõ ràng. Và tác giả đã kết luận: “Tính ước lệ của thời gian… không phải bắt nguồn từ truyện của Thanh Tâm tài nhân, mà bắt nguồn từ cảm nhận thời gian của Nguyễn Du…” và khẳng định: “Đây là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du”.
Qua những so sánh trên đây Giáo sư Trần Đình Sử đã góp phần thể hiện rõ những nét chung cũng như nét riêng trong cảm nhận về thời gian của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân cũng như các tác giả truyện Nôm khác. Qua đó, khẳng định được tài năng cũng như sức sáng tạo của đại thi hào.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ trương nam hương Văn học 0
T Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ từ 1-3 tuổi Tâm lý học đại cương 2
B Khảo sát hành động ngôn từ đe dọa trong một số tác phẩm hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945 và một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp Văn hóa, Xã hội 2
K Liên từ logic và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên Văn hóa, Xã hội 0
C So sánh từ, ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt (về một số đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá) Văn hóa, Xã hội 3
T Dạy học đọc hiểu "Sang thu" của Hữu Thỉnh trên cơ sở sáng tạo về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng c Luận văn Sư phạm 0
L Đối chiếu ngữ nghĩa động từ thị giác trong tiếng Việt và tiếng Hán. Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 2 Ngoại ngữ 0
H “Máu thịt và linh hồn của văn học là hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn từ". Anh (chị) hã Văn học 0
P Bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu nhìn từ cấu trúc và ngôn ngữ Văn học 2
C AV-Student: Phần mềm tự viết để học ngoại ngữ và từ điển đa ngôn ngữ Giới thiệu phần mềm hay theo yêu cầu 8

Các chủ đề có liên quan khác

Top