daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Lời văn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao

Approaching theaspects of the narrative speech, the writer would like to
point out one of the factors for the success in Nam Cao’s short stories.
Conspicuously, the narrative speech in his stories was very vivid and
flexible shifts. He had to take advantage, the ability to express of direct
speech and indirect speech for constructing his works. The mixture of the
forms of the narrative speech helps to organize vividly the complex aspects
of life in his short stories.
TÓM TẮT
Tiếp cận trên phương diện lời văn trần thuật, người viết muốn chỉ ra một
trong những yếu tố làm nên thành công cho truyện ngắn của Nam Cao. Dễ
thấy, lời văn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao hết sức sinh động và
biến chuyển linh hoạt. Ông đã tận dụng ưu thế, khả năng biểu hiện của lời
văn trực tiếp và lời văn gián tiếp để xây dựng tác phẩm. Việc kết hợp đan
xen những hình thức phong phú của lời văn trần thuật giúp cho Nam Cao
có điều kiện tổ chức sinh động các khía cạnh phức tạp của đời sống trong
truyện ngắn của mình.
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Nam Cao (1917 - 1951) là một nhà văn hiện
thực xuất sắc, người đã dốc cạn tâm lực của mình
vào những trang văn chứa chan biết bao nhân đạo.
Ngày nay, đọc những truyện ngắn của ông, ta vẫn
còn thấy nóng hổi chất sống hiện thực. Tìm hiểu
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao,
người nghiên cứu thường chú ý đến các phương
diện về chủ thể trần thuật; cấu trúc trần thuật; lời
văn và giọng điệu trần thuật. Lời văn trần thuật là
một yếu tố giữ vai trò vô cùng quan trọng trong
kiến tạo tác phẩm. Chính vì thế, các nhà văn không
ngừng nỗ lực sáng tạo để lời văn trần thuật luôn
phát huy được thế mạnh trong việc góp phần làm
nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Truyện ngắn
Nam Cao thể hiện một sự sáng tạo đầy nghệ thuật
trong các dạng thức lời văn trần thuật. Nhờ thế,
ông đã có được một phong cách truyện ngắn rất
riêng so với các nhà văn viết theo khuynh hướng
hiện thực cùng thời.
2 NỘI DUNG
2.1 Dạng lời văn trực tiếp trong truyện
ngắn nam cao
Các nhà lý luận văn học đã chỉ ra những dạng
phổ biến của lời văn trần thuật trong các tác phẩm
tự sự như: lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực
tiếp và lời gián tiếp. Trong đó, lời văn trực tiếp
được xem là “lời do nhân vật hay do tác giả -
những con người trực tiếp nói lên trong tác phẩm”
(Phương Lựu, 1997). Do vậy, lời trực tiếp trong tác
phẩm tự sự chủ yếu là những câu thoại và chúng
đảm nhận nhiều chức năng quan trọng. Trong đó,
lời trực tiếp của cái tui tác giả thường thuộc về
những đoạn trữ tình ngoại đề, hay những lời phẩm
bình, triết lý. Trong lời trực tiếp của nhân vật lại
thường được tìm hiểu ở hai dạng cơ bản là lời đốiTạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 39-45
40
thoại trực tiếp giữa các nhân vật trong tác phẩm và
lời nội tâm của nhân vật khi tự nói với chính mình.
Trước hết, tìm hiểu kiểu lời trực tiếp trong
truyện ngắn của Nam Cao, chúng tui sẽ đi tìm hiểu
kiểu lời trực tiếp của nhân vật. Với việc sử dụng
triệt để ngôn ngữ vùng đồng bằng Bắc Bộ, với kiểu
câu văn ngắn mà đậm ý, Nam Cao đã tạo ra những
đoạn đối thoại đầy ý vị, đầy kịch tính, đầy giản dị
nhưng không kém phần hấp dẫn đối với bạn đọc.
Lời văn đặt trong mỗi nhân vật rất phù hợp với giai
cấp, với hoàn cảnh cá nhân, với cuộc đời, với suy
nghĩ của riêng họ. Thông qua đối thoại trực tiếp
các nhân vật tự bộc lộ mình trong sự va chạm với
các nhân vật khác, và bộc lộ bản chất của mình
trong sự va chạm với chính “nửa kia” của mình
thông qua đối thoại và độc thoại nội tâm.
Viết về đề tài người nông dân, Nam Cao đã
cho thấy một khả năng am hiểu sâu sắc ngôn ngữ
của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bằng
sự chọn lựa và sáng tạo khéo léo, Nam Cao đã đưa
ngôn ngữ ấy vào tác phẩm của mình. Thông qua
đó, nhân vật bộc lộ tất cả sự chân thật, chất phác,
mộc mạc như chính con người thực bước vào tác
phẩm. Đằng sau tất cả những câu nói có vẻ thô ráp,
chỏng lỏn là cái chất nông dân mộc mạc, và cái lo
vén cho việc làm kiếm cái ăn hằng ngày. Hãy xem
cách xưng hô, và cách đối thoại của họ:
 “Mày chết đi!...Mày chết đi!...Mày chết đi
cho rồi!...
 Ô hay! Cái gì mà ghê gớm thế? Anh cu
Thiêm quắc mắt, toan quát lên với vợ. Nhưng vợ
anh rên rỉ:
 Trời ơi là trời! Mày giết tao!...Mày giết
tao!...Có một tí khung cửi thì mày đem mày bán
 Mẹ! Không có sợi, không bán thì để mà thờ
ông tổ nhà mày hở? (Thôi, đi về…)
Bên cạnh việc bộc lộ tính cách, lời văn trực tiếp
cũng có khả năng biểu hiện nội tâm, tình cảm của
nhân vật. Nam Cao hiểu thấu cả nỗi lòng, tình cảm
người nông dân, nên ông cố gắng miêu tả một cách
sinh động, chân thực qua tiếng nói của họ. Đoạn
lão Hạc trò chuyện với cậu Vàng trong truyện ngắn
Lão Hạc là đoạn thể hiện hết sức xúc động:
 “Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông
cho thì bỏ bố! Con chó tưởng chủ mắng vẫy đuôi
mừng, để lấy lại lòng chủ. Lão Hạc nạt to hơn nữa.
 Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng
giết! Cho cậu chết!
Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi,
vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm đầu
nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí:
 À không! À không! Không giết cậu Vàng
đâu nhỉ!...Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông
không cho giết. Ông để cậu Vàng ông nuôi…”
(Lão Hạc)
Trong đoạn trên, chỉ có lời của lão Hạc, còn sự
giao tiếp của cậu Vàng là những cử chỉ, hành động
mà chỉ có lão Hạc mới tưởng tượng ra, vì lão đang
chọn nó làm đối tượng để dốc bầu tâm sự. Qua lời
của lão Hạc, qua sự ngưng nghỉ giữa các ngôn từ
bằng các dấu ba chấm ở cuối mỗi câu nói cho thấy
một cách xúc động nỗi lòng, tình cảm của lão Hạc
dành cho con và cho cậu Vàng. Bao nhiêu tình
cảm, và tâm tư của lão dồn nén trong những câu
nói và cách xưng hô đầy trìu mến ấy.
Chẳng những viết về những người nông dân
trong cảnh đói khổ, Nam Cao cũng thường xuyên
viết về người trí thức tiểu tư sản trong cảnh túng
thiếu, bị nỗi lo cơm áo ghì sát đất. Họ cũng có
những e sợ tủn mủn, cũng chật vật vì cuộc mưu
sinh. Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao
cũng luôn dằn vặt bản thân và có những phút giây
thú nhận sự tàn nhẫn của mình với những người
xung quanh:
“Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng
khóc:
 Anh…anh…chỉ là…một thằng…khốn
nạn!...
 Không!...Anh chỉ là một người khổ
sở!...Chính vì em mà anh khổ…”
(Đời Thừa)
Lời văn trực tiếp ở đây đã cùng một lúc làm nổi
bật lên hai tâm trạng của hai nhân vật Từ và Hộ.
Người trí thức bên ngoài thì thú nhận sự khốn nạn
của mình với vợ con, bên trong chất chứa đau đớn,
tủi hổ. Từ hiểu được tâm trạng của chồng, chị
thông cảm với chồng, và chị cũng mang nặng tâm
lý dằn vặt vì nghĩ rằng chính vì gắn cuộc đời mình
với Từ nên Hộ mới trở thành người khổ sở như thế.
Sau năm 1945, Nam Cao có một số tác phẩm
khá tiêu biểu có sử dụng những đoạn đối thoại trực
tiếp giữa các nhân vật nhằm làm nổi bật lên vị trí,
giai cấp, tính cách của chính nhân vật phát ngôn
trong đó như : Đôi mắt; Mò sâm banh. Lời thoại
giữa các nhân vật trong Đôi mắt thông thường khá
dài dòng chứ không phải là những câu thoại ngắn.
Bởi vì hai nhân vật chính tham gia vào các đoạn
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiTạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 39-45
41
hội thoại là nhà văn Hoàng và Độ. Hoàng nói
chuyện với Độ nhưng thực chất là kể lể tất cả
những điều anh ta đánh giá là lố bịch và bi quan về
người nông dân, về cách mạng. Qua lời nói của
Hoàng, tính cách của anh ta được bộc lộ sắc nét
hơn bao giờ hết.
Một tiểu loại khác của dạng lời văn trực tiếp là
lời nội tâm. Truyện ngắn Nam Cao có đặc trưng là
có kết cấu và cốt truyện tâm lý, rất nhiều truyện
nương theo yếu tố tâm lý để kể chuyện. Để đạt
được hiệu quả nghệ thuật cao, nhà văn phải sử
dụng khéo léo một số lượng không nhỏ lời nội tâm
nhân vật. Chính nhờ kiểu lời văn này mà nhân vật
bộc lộ rất tinh tế những suy nghĩ, tư tưởng, dòng
nội tâm, tình cảm riêng tư của nhân vật. Đặc biệt là
những sáng tác ở giai đoạn trước năm 1945, kiểu
lời văn này được Nam Cao sử dụng khá thành công
và tận dụng triệt để những chức năng biểu hiện của
nó. Nhờ thế người đọc khám phá nhân vật dễ dàng
ở những chiều sâu tâm trạng và tính cách nhân vật.
Với những truyện ngắn có kết cấu tâm lý, lời nội
tâm luôn chiếm vị trí chủ đạo trong toàn truyện.
Khi thì là độc thoại nội tâm, khi thì chính nhân vật
tự đối thoại với mình trong suy nghĩ. Có thể kể đến
các truyện như: Chí Phèo; Cái mặt không chơi
được; Giăng sáng; Đôi móng giò; Mua nhà; Từ
ngày mẹ chết; Điếu văn; Đời thừa; Cười; Nước
mắt;…
Ở Chí Phèo, mỗi nhân vật đều hiện lên với vẻ
sống động qua lời nội tâm. Chí Phèo sau khi rạch
mặt ăn vạ được Bá Kiến “xử mềm”, đã có vẻ tỉnh
táo và anh ta tự đối thoại với chính mình bằng
những phân tích rạch ròi trong suy nghĩ về việc kẻ
đã đẩy hắn vào tù và đang xử nhũn với hắn: “Cái
thằng Bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái
nước gì mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại gì mà
vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra
đây này, lại kêu toáng lên xem nào…Thôi cứ vào!
Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào
ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài.
Cùng lắm nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù.
Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào…”.
Có những truyện ngắn Nam Cao sử dụng với
mật độ dày đặc các lời nội tâm nhân vật. Có những
truyện thì lời trực tiếp là chủ đạo đôi lúc tác giả
điểm xen kẽ những lời nội tâm để tạo điều kiện cho
nhân vật có cơ hội suy ngẫm, chiêm nghiệm và tự
do bày tỏ những suy nghĩ riêng tư của mình, nhân
vật có điều kiện nhìn vào chính mình để điều chỉnh
nhận thức, hành vi và thái độ đối với hiện thực.
Người đọc, trên cơ sở đó cũng có điều kiện tìm
hiểu nhân vật đa diện, đa chiều hơn và tiếp cận tác
phẩm ở nhiều góc cạnh hơn.
Trong phạm vi những truyện ngắn về đề tài
người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao thường làm nổi
bật lên những mâu thuẫn trong gia đình của họ. Từ
mâu thuẫn gia đình Nam Cao tìm đến bi kịch của
người trí thức. Không phải là bi kịch bị tước đoạt
quyền làm người lương thiện, không phải là bi kịch
bị miếng ăn làm nhục, mà cái bi kịch của người trí
thức là bi kịch bị gánh nặng cơm áo “ghì sát đất”,
bi kịch của những con người muốn cống hiến cho
nghề nghiệp nhưng cứ phải canh cánh nỗi lo cơm
áo gạo tiền,… Tất cả những điều đó khiến người trí
thức của Nam Cao cứ quẩn quanh mãi trong cái
góc hẹp của không gian sống gia đình, để bao
nhiêu sự bức bối, ngột ngạt cứ đè nặng lên cuộc
sống tù túng của họ. Những người trí thức trong
Đời thừa; Nước mắt; Cười,… có chung bi kịch ấy.
Người trí thức trong Nước mắt trải qua những
căng thẳng ghê gớm trong mâu thuẫn gia đình và
những va chạm ngoài xã hội. Anh triền miên trong
những căng thẳng, xung đột ấy. Nhưng cứ sau mỗi
cuộc xung đột gay gắt anh lại bình tĩnh soi vào tận
tâm can mình để nhìn nhận tất cả những điều đã
xảy ra. Anh tìm đến nguyên nhân của mâu thuẫn để
tự giải quyết bằng những mổ xẻ trong mạch nội
tâm để từ đó anh thông cảm cho sự bực tức của vợ:
“Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta
lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm
thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt
gỏng? Gắt gỏng thì chính mình khổ trước… thật ra
có ai muốn cau có làm chi? Vậy thì vợ hắn gắt lên
với hắn lúc nãy cũng chỉ là việc thường thôi”. Với
việc kết hợp độc thoại và đối thoại nội tâm trong
khắc họa tính cách và thể hiện chiều sâu tâm trạng
nhân vật, Nam Cao đã sử dụng một số lượng lớn
trong nhiều truyện ngắn kết hợp với các dạng thức
lời văn trần thuật khác miêu tả và khắc họa nhân
vật. Dạng nhân vật nhiều suy tư và nặng về những
trăn trở băn khoăn đã trở thành những nhân vật rất
sống động trong những truyện thuộc kết cấu và cốt
truyện tâm lý của Nam Cao.
Trong kiểu lời văn trực tiếp, bên cạnh lời đối
thoại trực tiếp và lời nội tâm, truyện ngắn Nam
Cao còn xuất hiện lời của cái tui nhà văn hay chủ
thể trần thuật. Trong đó những lời trữ tình ngoại đề
ấy thường biểu lộ trực tiếp tư tưởng, tình cảm, và
quan niệm đối với đời sống và nhân vật của tác giả
hay người kể chuyện. Truyện ngắn của Nam Cao
thể hiện rất rõ dấu ấn của tác giả và chủ thể trần
thuật trong những lời trữ tình ngoại đề ngay cả ở
những truyện được kể theo ngôi thứ ba theo điểmTạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 39-45
42
nhìn vô nhân xưng. Ở mỗi truyện ngắn, ít nhiều
người đọc vẫn nhận thấy bóng dáng của tác giả hay
chủ thể trần thuật trong đó thông qua những lời
bình luận, đánh giá những lời triết lý, hay những
lời thể hiện cảm xúc của mình đan lồng trong lời
thể hiện nhân vật.
Hầu hết những lời trữ tình ngoại đề trong
truyện ngắn Nam Cao đều mang tính triết lý rất
cao. Thông thường nhà văn không bày tỏ trực tiếp
thái độ của mình trong tác phẩm vì khi ấy nó sẽ dễ
làm mất đi cái phần chìm của “tảng băng trôi” mà
mỗi tác phẩm cần có để gợi sự thích thú khám
phá của người đọc. Nam Cao có sử dụng những lời
trực tiếp như vậy, nhưng cái tài trong việc sử dụng
kiểu lời văn này của Nam Cao ấy là ông “cô”
những lời nhận xét, hay thái độ, phẩm bình của
mình bằng những lời văn súc tích mang đậm tính
triết lý, khiến cho truyện ngắn của ông được khơi
sâu tầng ý nghĩa. Đồng thời qua đó người đọc hiểu
rõ những trăn trở, những suy nghĩ của nhà văn về
cuộc sống về thế thái nhân tình chứ không chỉ đơn
giản là những lời trữ tình ngoại đề dễ dãi, rườm rà
kém sức biểu cảm.
Những lời trữ tình ngoại đề trong truyện ngắn
của Nam Cao có khi là những lời cảm thông sâu
sắc đối với nhân vật “Cái khổ làm héo một phần
lớn những tính tình tươi đẹp của người ta” (Đời
thừa); “Một người đau chân có lúc nào quên được
cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác
đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn
nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người
ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỉ che lấp
mất” (Lão Hạc). Khi là những lời ngậm ngùi bật ra
những đúc kết, những chiêm nghiệm sâu sắc về
cuộc sống, về sự tác động của hoàn cảnh lên nhân
cách, đạo đức của con người. Và ẩn đằng sau
những suy tư ấy là một cái gì nhói đau trong lòng
tác giả ở những câu như: “Hỡi ôi! Thì ra lòng
khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái
nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người
không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai
trọng cả; làm nhục người là một cách rất điệu để
khiến người sinh đê tiện…” (Tư cách mõ). Truyện
ngắn Nam Cao sau năm 1945, ít khi bộc lộ lời trực
tiếp mang đậm tính triết lý như vậy. Riêng ở Đôi
mắt, chủ thể trần thuật có đôi lúc trực tiếp lên tiếng
thể hiện thái độ đánh giá của mình trước cách nhìn
đời và thái độ của Hoàng đối với người nông dân
và với cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc: “Vẫn
giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng
quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và
chán nản”. (Đôi mắt)
Có thể thấy, kiểu lời trữ tình ngoại đề trong
truyện ngắn Nam Cao chủ yếu là lời của chủ thể
trần thuật xen ngang với mạch trần thuật của
truyện. Những đoạn trữ tình đan xen này tạo ra
những khoảng dừng nghệ thuật đầy đắc dụng. Nhờ
thế mà chủ thể trần thuật thể hiện một thái độ đồng
cảm sâu sắc với nhân vật. Đồng thời, góp phần bổ
sung và soi sáng ý nghĩa chủ đề, nội dung tư tưởng
cũng như thể hiện cái nhìn, thái độ của nhà văn
trước lẽ sống, nhân sinh. Có thể nói, truyện ngắn
Nam Cao đã có một sự kết hợp khéo léo, đa dạng
và linh hoạt giữa lời văn trực tiếp của nhân vật, của
cái tui tác giả, của chủ thể trần thuật.
2.2 Dạng lời văn gián tiếp trong truyện
ngắn Nam Cao
Lời văn gián tiếp được hiểu là “lời tác giả hay
lời người trần thuật do tác giả ủy quyền” (Lê Tiến
Dũng, 2003). Lời văn gián tiếp có hai chức năng
chính là “tái hiện và phân tích, lí giải thế giới
khách vật chất, sự việc, con người, cảnh vật,…lí
giải lời nói, ý thức người khác” (Phương Lựu,
1997). Lời văn gián tiếp có thể được chia làm hai
loại theo quan niệm của Bakhtin là: lời gián tiếp
một giọng và lời gián tiếp hai giọng. Lời gián tiếp
một giọng chính là lời của người trần thuật không
có lời đan xen của nhân vật. Lời gián tiếp hai giọng
lại thường có lời kể của chủ thể trần thuật xen lời
nhân vật. Trong loại lời văn này lại có các dạng
chính là lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp phong cách
hóa, lời gián tiếp của người kể chuyện.
Cùng với lời văn trực tiếp, lời văn gián tiếp
cũng là một thành phần lời văn trần thuật nổi bật
của Nam Cao. Với dạng lời văn này, nhà văn đã
thể hiện được một cách đa dạng thế giới vật chất,
cũng như thế giới nội tâm của con người, đồng thời
cho thấy một mối liên hệ có ý nghĩa nghệ thuật
giữa chúng. Ở truyện ngắn Nam Cao với kiểu lời
gián tiếp một giọng xuất phát từ chủ thể trần thuật
ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba theo điểm nhìn
hướng ngoại dùng để miêu tả thế giới khách quan,
cảnh vật bên ngoài có tác động đến suy nghĩ, tâm
trạng nhân vật và một phần nhiều kiểu lời này Nam
Cao dùng để miêu tả diện mạo và tính cách nhân
vật. Nam Cao là nhà văn thuộc dòng văn học hiện
thực phê phán. Truyện của ông không nhiều đoạn
miêu tả cảnh vật lãng mạn như ở truyện ngắn của
Thạch Lam, nhưng không phải là không có. Trong
truyện ngắn Nam Cao, ngoại cảnh có một sự
tác động nhất định đến tâm trạng và ý thức của
nhân vật.
Trong Giăng sáng, thiên nhiên được miêu tả
với một giọng “nhại” lãng mạn dưới cái nhìn của
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiTạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 39-45
43
Điền: “Có đọc văn thơ, mới biết giăng là một cái gì
đẹp và quí lắm. Giăng là cái liềm vàng giữa đống
sao. Giăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da
trời. Giăng tỏa mộng xuống trần gian. Giăng tuôn
suối mát để những hồn khát khao ngụp lặn. Trăng!
ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn
đời mơn man!”. Sự mơ mộng trước thiên nhiên này
đã khiến Điền tạm thời thoát ly thực tế và anh say
sưa đắm chìm trong bao nhiêu là mơ tưởng, là hoài
bão. Thiên nhiên huyền ảo này cũng đối lập với
bóng tối nơi trần gian cũng như cuộc sống lầm
than, tù túng đang vây riết cuộc sống của Điền. Sự
đối lập này tác động đến tâm trạng và nhận thức
của Điền. Cuối cùng thì Điền cũng nhận ra ý nghĩa
đích thực của nghệ thuật và anh sẵn sàng sống
trong lao khổ, mở lòng ra đón lấy những vang động
của đời.
Ở lời gián tiếp một giọng trong truyện ngắn
Nam Cao, người đọc bắt gặp những đoạn miêu tả
chân dung, khắc họa ngoại hình tính cách nhân vật
hết sức độc đáo. Có những nhân vật Nam Cao miêu
tả bằng một bút pháp tả chân sắc nét. Một trong
những điển hình là dáng Thị Nở: “Cái mặt
của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó
ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn
bề dài; thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai
hại, nếu má phính phính thì mặt thị lại còn được
hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn
người ta tưởng trên cổ người. Cái mũi thì vừa
ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành,
bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi
cũng cố to cho không thua cái mũi… đã thế những
cái răng rất to lại chìa ra; ý hẳn chúng nghĩ sự cân
đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Đã thế thị
lại dở hơi” (Chí Phèo).
Bức dáng của Hoàng hiện lên qua con mắt
nhìn của Độ - chủ thể trần thuật xưng “tôi” trong
Đôi mắt lại phản ánh trung thực lối sống của
Hoàng trong những ngày kháng chiến: “Anh vẫn
bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to
béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra
hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra
và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu
nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo Tây
cả bộ, trông chỉ thấy chững chạc và hơi bệ vệ. Bây
giờ nó lộ ra khá rõ ràng, trong bộ áo ngủ màu
xanh nhạt, phủ một lớp áo len trắng nó nịt người
anh đến nỗi không còn thở được” (Đôi mắt). Đó là
dáng của một người sống trưởng giả, no đủ,
và bàng quan với mọi sự vận động của cuộc
cách mạng.
Bên cạnh lời văn gián tiếp một giọng miêu tả
ngoại cảnh, khắc họa dáng nhân vật, ta còn
bắt gặp lời văn gián tiếp một giọng của chủ thể trần
thuật xưng “tôi” với điểm nhìn hướng nội. Nam
Cao có nhiều truyện ngắn được viết theo kiểu lời
văn trần thuật này. Ở đó, truyện ngắn được trần
thuật như một lời tâm sự, bộc bạch nỗi lòng của
chính người trong cuộc. Những truyện ngắn như:
Cái mặt không chơi được; Những truyện không
muốn viết; Mua nhà; Điếu văn;… là những truyện
như thế. Thực ra đây là lời trực tiếp của nhân vật
xưng “tôi” trong tác phẩm, nhưng “tôi” cũng là chủ
thể trần thuật trong tác phẩm nên lời trực tiếp này
đã trở thành lời văn gián tiếp. Do nó là lời bộc bạch
của chính người trong cuộc nên nó có một sự chân
thực và sức thuyết phục riêng, và lời văn mang
đậm dấu ấn của chủ thể trần thuật.
Ở Những truyện không muốn viết nhân vật “tôi”
tâm sự, giãi bày về chính cái khổ của mình trong
việc lựa chọn đề tài để viết nhưng thật ra là để bộc
lộ chính cái cuộc sống bức bối, ngột ngạt do cái
cùng kiệt cái túng mang lại. Chính anh tâm sự rằng:
“Trọn đời tôi, tui chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn
nghĩ đến những cái to tát làm sao được? Nguyện
vọng của tôi? ấy là làm thế nào cho vợ có tiền đong
gạo, mua nước mắm và mua ba xu thuốc chốc đầu
của bà lang lùn về cho con”. Đó cũng là cái nỗi khổ
chung của những người trí thức nghèo.
Như vậy, với kiểu lời văn trần thuật này, Nam
Cao đã để chủ thể trần thuật tự bạch tất cả những
nỗi lòng sâu kín của mình. Không qua điểm nhìn
của một người nào khác, mà xuất phát từ điểm nhìn
bên trong của chính chủ thể trần thuật, nhân vật có
cơ hội giãi bày tất cả những cảm xúc, bộc lộ những
tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc sống, về
thế giới xung quanh. Và ẩn đằng nhau thế giới nội
tâm chân thực đó, bóng dáng của cái tui tác giả
xuất hiện. Dường như cái tui tác giả đã hóa thân
vào chủ thể trần thuật để phơi bày tất cả những vi
mạch tâm trạng của mình.
Đọc truyện ngắn Nam Cao, bên cạnh lời văn
gián tiếp một giọng, ta còn bắt gặp một dạng lời
văn tiêu biểu khác khá nổi bật trong truyện ngắn
Nam Cao, đó là lời văn nửa trực tiếp - là lời văn
thuộc kiểu lời văn gián tiếp hai giọng. Ở dạng lời
văn nửa trực tiếp chúng ta sẽ bắt gặp lời văn gián
tiếp một giọng của chủ thể trần thuật kết hợp với
lời trực tiếp trong ý thức, nội tâm, cảm xúc của
nhân vật. Nhưng do nó là lời tường thuật của chủ
thể trần thuật nên nó trở thành lời gián tiếp. Khi ấy,
điểm nhìn của chủ thể trần thuật đã hóa thân vào
điểm nhìn bên trong của nhân vật để bộc lộ. Kiể

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top