An_kute

New Member

Download miễn phí Đề tài Ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu Á





LỜI NÓI ĐẦU. 4

Chương I: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á. 6

I. Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường 6

II. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong

 khu vực châu Á 10

1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy 10

2. Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng giấy 17

2.1. Thị trường bột giấy 17

2.2. Thị trường giấy loại 19

2.3. Thị trường giấy thành phẩm 20

III. Dự báo nhu cầu của thế giới và khu vực đối với mặt hàng giấy

 trong thời gian tới 21

1. Thị trường giấy 21

2. Thị trường bột giấy 24

 

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


i giá thường cao hơn giấy trong nước khoảng 15% và có thể hơn do chất lượng "quá cao", trong khi người dân chỉ yêu cầu chất lượng sản phẩm vừa phải và giá cả hợp túi tiền. Ví dụ như các sản phẩm khăn giấy của Công ty giấy Bãi Bằng có chất lượng tương đối tốt với giá phải chăng đang dần dần được người tiêu dùng chấp nhận. Một hộp khăn giấy 150 tờ x 2 lớp có giá bán trên thị trường khoảng từ 5.500 đến 7.000 đồng, trong khi một hộp tương tự của hãng Puppy có bán trên thị trường là 12.000-15.000 đồng. Ngoài ra, trên thị trường hiện nay, các sản phẩm khăn giấy sản xuất thủ công với giá thành cực rẻ cũng được rất nhiều các cửa hàng ăn uống, nhất là các cửa hàng bình dân ưa chuộng vì khách hàng thường ít chú ý và không quá khó tính khi dùng mặt hàng này. Như vậy bằng mọi giá chúng ta phải giảm giá thành các mặt hàng giấy vệ sinh, khăn giấy xuống để có thể duy trì được khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, một mặt hàng giấy nữa cũng không gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ là giấy vàng mã. Nhu cầu của thị trường đối với mặt hàng này tương đối lớn do thói quen đốt vàng mã là một thói quen lâu đời của người dân Việt Nam. Hơn nữa, phú quý sinh lễ nghĩa, mức sống ngày một cao, công việc làm ăn ngày càng phải chịu nhiều áp lực cũng khiến cho người dân trở nên "mê tín" hơn kéo theo nhu cầu tiêu thụ giấy vàng mã ngày càng tăng.
2.2. Tình hình xuất khẩu ra nước ngoài
Tình hình tiêu thụ sản phẩm giấy trong nước tương đối khó khăn nên việc xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam ra nước ngoài gặp nhiều khó khăn và còn rất hạn chế là điều không tránh khỏi.
Các sản phẩm như giấy viết, giấy in hầu như không có khả năng xuất khẩu do sức cạnh tranh kém. Các sản phẩm khác như giấy bao bì công nghiệp cao cấp, giấy couché, giấy duplex tráng phấn, giấy ảnh,... sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng nổi nhu cầu nội địa, hàng năm phải nhập khẩu rất nhiều thì nói gì đến xuất khẩu.
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là bột giấy và giấy vàng mã. Thị trường xuất khẩu bột giấy lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, có thể nhập 1 triệu tấn bột giấy của Việt Nam mỗi năm. Năm 2001, nước ta xuất khẩu được 74.278 tấn giấy vàng mã còn năm 2002 xuất khẩu được 80.000 tấn. Tuy nhiên, sản phẩm này mới chỉ được sản xuất thủ công, chứ chưa được sự quan tâm của các công ty lớn.
Hi vọng rằng với những thay đổi hợp lý, trong tương lai ngành giấy Việt Nam sẽ tăng cường được hoạt động xuất khẩu trước mắt là sang những thị trường trong khu vực.
3. Tình hình nhập khẩu các mặt hàng giấy từ nước ngoài
3.1. Thị trường nhập khẩu
Trong nhiều năm trở lại đây, lượng giấy nhập khẩu vào nước ta chủ yếu có nguồn gốc từ một số nước trong khu vực như Inđônêxia, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan... Trong đó, đối thủ cạnh tranh nặng ký nhất của Việt Nam là Inđônêxia, nước sản xuất giấy lớn nhất ở Đông Nam á. Từ ngày 1/7/2003, khi mức thuế nhập khẩu giảm xuống còn 20%, cuộc cạnh tranh giữa giấy nội và giấy ngoại đã thật sự diễn ra không cân sức. Nhiều người cho rằng thực chất đây là cuộc chiến giữa các nhà máy giấy trong nước với ngành giấy của hai nước Inđônêxia và Thái Lan. Lượng giấy nhập khẩu từ riêng hai nước này đã chiếm khoảng trên 80% kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm giấy của Việt Nam trong 5 năm qua. Ông Lin Po Chung, trưởng thay mặt của công ty giấy APP tại thành phố Hồ Chí Minh, một trong những doanh nghiệp giấy hàng đầu của Inđônêxia, cho biết: "Thật ra, ngay từ đầu năm 2003, kế hoạch của chúng tui là phải tăng gấp ba lần so với năm trước. Tuy nhiên, thời điểm điều chỉnh giảm thuế đã được thay đổi đến 1-7 vừa qua, nên công ty sẽ phải xem xét động thái thị trường thêm một thời gian nữa..." Nhiều công ty giấy lớn khác của Thái Lan, Inđônêxia,... có thị phần tại Việt Nam cũng không giấu giếm chiến lược chiếm lĩnh thị trường giấy Việt Nam trong những tháng sắp tới, đặc biệt là đối với thị trường giấy phía Bắc.
Như vậy, có thể thấy trong những năm qua, các sản phẩm giấy từ các nước trong khu vực đã chiếm thị phần rất lớn trên thị trường Việt Nam và theo đoán tỷ lệ này sẽ còn tăng lên trong những năm tới. Trong đó, các sản phẩm giấy của Inđônêxia và Thái Lan sẽ còn tiếp tục chiếm lĩnh thị trường giấy chất lượng cao trong thời gian tới.
3.2. Kim ngạch nhập khẩu
Lượng giấy nhập khẩu hiện nay chiếm khoảng 50% thị phần trong nước không những ở các mặt hàng giấy trong nước chưa sản xuất được mà cả ở những mặt hàng vốn là thế mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh như giấy bao bì công nghiệp, giấy in, giấy viết,...
Năm 2002, lượng giấy nhập khẩu vào khoảng 340.000 tấn, bằng 80% sản lượng giấy sản xuất trong nước. Do các cơ sở đầu tư một số loại giấy mới nên kết cấu các loại giấy nhập khẩu đã thay đổi. Giấy tráng1, 2 mặt được nhập nhiều nhất tới 39% (145.251 tấn) trong tổng số, các loại giấy chuyên dụng cũng được nhập với số lượng lớn tới 25% (94.470 tấn), lượng giấy làm lớp mặt hộp cáctông nhiều lớp đã giảm mạnh, giấy vệ sinh và khăn giấy đã không còn được nhập khẩu chính ngạch. Sau đây là những con số cụ thể về tình hình nhập khẩu các sản phẩm giấy trong năm 2002.
Bảng 6:
Kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm giấy năm 2002
Sản xuất
Nhập khẩu
Tổng cộng
So sánh
1
(tấn)
2
(tấn)
3
(tấn)
2/3
(%)
Giấy in báo
35.335
29.364
63.699
46
Giấy in & viết
135.120
29.833
164.953
18
Giấy làm bao bì cáctông
233.318
72.636
305.954
24
Giấy vệ sinh, khăn giấy
24.000
24.000
Giấy tráng
145.251
145.251
100
Giấy vàng mã xuất khẩu
80.000
80.000
Giấy vàng mã dùng trong nước
18.000
18.000
Khác
12.556
94.470
107.928
88
Tổng cộng
538.231
371.554
909.785
41
(Nguồn: Tạp chí Công nghiệp giấy số 125 tháng6/2003)
Liên tiếp trong thời gian qua, thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại, qua đổi hàng, gian lận thương mại,... giấy ngoại đã nhập vào khá nhiều. Những nguồn giấy này do không phải chịu thuế đã làm hàng rào bảo hộ đối với ngành giấy trong nước ít nhiều mất đi tác dụng trước khi được dỡ bỏ một cách chính thức vào tháng 7/2003.
Trong 7 tháng đầu năm 2003, lượng giấy nhập khẩu vào Việt Nam là 256.000 tấn, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó chỉ riêng tháng 7 đã nhập 40.000 tấn. Hàng rào thuế quan trong khu vực đang dần được tháo bỏ. Trước ngày1/7/2003, thuế suất nhập khẩu mặt hàng giấy in là 50%, giấy in báo là 40%. Kể từ khi lộ trình gia nhập AFTA được thực hiện, mức thuế suất và phụ thu giấy nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 20% khiến cho lượng hàng nhập về tăng mạnh.
Theo tính toán của các nhà quản lý, sau khi chịu thuế nhập khẩu và các chi phí khác thì giá giấy ngoại nhập của Inđônêxia và Thái Lan hiện đang rẻ hơn giấy cùng loại trong nước từ 0,5-1 triệu đồng/tấn. Theo nhận xét của một số cơ sở in, giấy ngoại không chỉ có giá bán thấp hơn mà còn rất "dôi trang", cùng trọng lượng nhưng số trang của giấy ngoại thường nhiều hơn giấy nội 5-7%. Chất lượng giấy ngoại cũng hơn hẳn giấy trong nước về độ sáng trắng hơn, hút ẩm thấp hơn,... Với những lợi thế này, giấy in báo và giấy viết gần như thống lĩnh thị trường trong nước.
Giấy nhập về chủ yếu là các loại giấy bao bì công nghiệp cao cấp như giấy couché, giấy duplex tráng phấn, giấy ảnh và hơn 8.000 tấn giấy in báo. Theo Tổng Công ty Giấy Việt Nam, sở dĩ giấy in và giấy viết nhập về chưa nhiều là do giá giấy trong khu vực lại tăng khoảng 70 USD/tấn, trong khi các doanh nghiệp trong nước đã phải giảm giá bán tối đa, thậm chí bằng giá thành và bán trả chậm. Nếu so sánh với Inđônêxia, nước có công suất 10 triệu tấn giấy/năm, công nghệ hiện đại nhất khu vực ASEAN, sản phẩm giấy hiện bán khoảng 650-680 USD/tấn, trong khi đó giá thành của giấy Bãi Bằng rẻ nhất Việt Nam thì cũng cao hơn bình quân 100 USD/tấn.
Chỉ có những sản phẩm như giấy vệ sinh, khăn giấy, giấy làm bao bì cáctông, giấy vàng mã là không vấp phải sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Các sản phẩm giấy vệ sinh và khăn giấy từ trước đến nay cũng đã được nhập khẩu vào trong nước nhưng do đặc thù của sản phẩm và nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm ngoại nhập không lớn nên lượng nhập khẩu rất nhỏ. Đặc biệt, sản phẩm giấy vàng mã hoàn toàn không phải nhập khẩu.
Các nhà nhập khẩu giấy từ Thái Lan và Inđônêxia đều cho rằng mức giá trên thị trường sắp tới sẽ giảm nhưng chắc chắn không lớn. Theo tính toán của họ, mức thuế khi chưa áp theo lộ trình AFTA đối với loại giấy in báo, giấy viết, giấy photocopy trước đây là 50% + phụ thu + thuế VAT 10%= 76% sẽ giảm xuống theo lộ trình AFTA còn 20%. Song với việc Bộ Tài chính điều chỉnh mức tăng giá tối thiểu để tính thuế thay vì căn cứ mức giá trên hợp đồng đã giữ mức giá một số mặt hàng giấy vẫn còn khá cao. Các công ty giấy lớn của Thái Lan, Inđônêxia,... có thị phần tại Việt Nam cũng không giấu giếm chiến lược chiếm lĩnh thị trường giấy Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là đối với thị trường giấy khu vực phía Bắc, khi có tin nhà máy giấy lớn nhất Việt Nam là Bãi Bằng phải ngưng sản xuất từ 1-7 tháng để thay đổi thiết bị đã quá lạc hậu.
Trong 6 tháng đầu năm 2003, giá bột giấy nhập khẩu tăng 16-19% so với cùng kỳ năm ngoái và có chiều hướng sẽ còn tăng trong những tháng cuối năm. Giá bột giấy chế biến từ gỗ mềm ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
Y Ngành giấy Việt Nam đứng trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực Công nghệ thông tin 0
R Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu ngành Giấy tại Tổng công ty Giấy - Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Chiến lược kinh doanh cho ngành sản xuất bao bì giấy Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020 Luận văn Kinh tế 0
C Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập Tài liệu chưa phân loại 0
A Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Luận văn Kinh tế 0
B Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập Luận văn Kinh tế 0
M Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập Luận văn Kinh tế 0
L NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC Luận văn Kinh tế 0
H Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc t Tài liệu chưa phân loại 0
N Thực trạng của ngành giấy và giải pháp cho ngành giấy hội nhập khi Việt Nam gia nhập WTO Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top