daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Mở đầu
Hình thức khu công nghiệp sinh thái (KCNST) đã được nghiên cứu và phát triển mô hình
hiện thực từ việc áp dụng lí thuyết sinh thái học công nghiệp ở nhiều quốc gia từ cuối của thế kỷ
XX. Có rất nhiều các nghiên cứu liên quan đến lí thuyết sinh thái học công nghiệp [1-3], hay
trường hợp cụ thể về khu công nghiệp sinh thái trên thế giới. Trong khu vực Châu Á, Hàn Quốc là
một quốc gia đi đầu trong áp dụng mô hình khu công nghiệp sinh thái trong thực tế, đã đạt được
nhiều thành công [4-9]. Ở Việt Nam tác giả đầu tiên có nghiên cứu về KCNST là của Nguyễn Cao
Lãnh dưới góc độ quy hoạch [10]. Sau đó là các nghiên cứu tập trung trong các nhóm ngành khoa
học môi trường, chủ yếu là các bài nghiên cứu khoa học, khóa luận, luận văn tốt nghiệp. Một số
các nghiên cứu cũng tìm hiểu về bài học phát triển KCN sinh thái nhưng chủ yếu là các trường
hợp khác như ở Đan Mach, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Thái Lan [8, 11, 12]. Vì vậy, nghiên cứu kinh
nghiệm ở của thế giới mà trường hợp cụ thể là ở Hàn Quốc, là cần thiết cho Việt Nam trong việc
hình thành và phát triển hình thức KCN mới hiệu quả hơn, giải quyết bài toán cân bằng kinh tế,
môi trường và xã hội.
Bài viết nhằm làm rõ việc áp dụng lí thuyết sinh thái học trong thực tiễn là mô hình KCNST;
từ bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc để làm rõ một số bài học cho việc hình thành và phát triển
KCNST ở Việt Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm Sinh thái học công nghiệp và hình thức khu công nghiệp sinh thái
Lí thuyết về sinh thái học công nghiệp đã được tiếp cận từ lâu. Các tác giả tiếp cận khái niệm
STCN trên 3 nhóm quan điểm chính: Quan điểm tổ chức lãnh thổ; Quan điểm kĩ thuật, xem xét
các quá trình sản xuất trong dòng chảy vật chất và năng lượng; Quan điểm về PTBV, quản lí
nguồn tài nguyên [13; tr. 25]. Mặc dù được tiếp cận từ nhiều góc độ, nhưng trong lịch sử của khái
Ngày nhận bài: 3/1/2018. Ngày sửa bài: 19/3/2018. Ngày nhận đăng: 20/3/2018.
Tác giả liên hệ: Trịnh Thị Tuyết Dung. Địa chỉ e-mail: [email protected] nghiệm phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam
153
niệm STCN, giới nghiên cứu khoa học thừa nhận khái niệm về STCN xuất hiện đầu tiên trong
nghiên cứu của Frosch và Gallopoulos (1989) khi đặt ra vấn đề làm cho hệ thống công nghiệp
hoạt động như một hệ sinh thái [2]. Nghiên cứu của hai tác giả này đã đề cập đến những thay đổi
mang tính ưu việt của STCN so với một hệ thống công nghiệp thông thường. Trong mô hình công
nghiệp truyền thống, mỗi đơn vị sản xuất lấy nguyên liệu và tạo ra các sản phẩm công nghiệp và
các chất thải được xử lí được chuyển đổi thành mô hình tích hợp nhiều hơn. Tiêu thụ năng lượng
và vật liệu được tối ưu hóa. So với hệ thống công nghiệp rời rạc trước kia, các đơn vị sản xuất
trong STCN có tính kết nối cao. STCN có ý nghĩa quan trọng khi được vận dụng ở cấp độ khu,
cụm, mạng lưới sản xuất có các mối liên hệ chất chất và dịch vụ chặt chẽ, đặt trong tương quan
với các hệ sinh thái và cộng đồng dân cư địa phương và vùng [14; tr. 21].
Như vậy, STCN có thể hiểu là một quá trình sản xuất công nghiệp mà trong đó, hệ thống
công nghiệp này có mối quan hệ tương tác bên trong và bên ngoài, theo vòng tuần hoàn về trao
đổi chất trong tự nhiên. Dòng chảy vật chất và năng lượng được sử dụng tối đa, nó chuyển hóa
sang các dạng khác nhau, từ đầu ra của đơn vị sản xuất này sang đầu vào cho đơn vị sản xuất khác
thông qua các liên kết chặt chẽ. STCN đạt hiệu quả cao nhất là khi không còn khái niệm về chất
thải trong sản xuất công nghiệp.
2.2. Khu công nghiệp sinh thái
KCNST là trường hợp cụ thể của việc phát triển hình thức KCN theo lí thuyết về sinh thái
học công nghiệp. Theo một số các nghiên cứu, về cơ bản, KCNST mang những đặc điểm của
KCN và được vận dụng lí thuyết sinh thái học công nghiệp trong thực tiễn. Thiết kế KCNST cần
thải đảm bảo nguyên tắc: i) hài hòa với thiên nhiên; ii) hệ thống quản lí năng lượng; iii) quản lí
dòng nguyên liệu và chất thải; iv) cấp thoát nước; v) quản lí KCNST hiệu quả; vi) xây dựng và cải
tạo; vii) hài hòa với cộng đồng địa phương. Về phân loại các KCNST, tiếp cận dựa trên ngành
nghề hoạt động có 5 loại: i) KCNST nông nghiệp; ii) KCNST tái tạo; iii) KCNST năng lượng tái
sinh; iv) KCNST nhà máy điện; v) KCNST hóa học hay hóa chất [4].
Một vài nhóm tác giả trong nước cũng đưa ra khái niệm riêng về KCNST. Phạm Nguyễn
Ngọc Anh (2011) nhấn mạnh đến việc tạo liên kết giữa các bên trong quá trình sản xuất, cũng như
lợi ích chung mang lại cho các bên tham gia [11; tr. 4]. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là chu trình phát
triển cộng sinh công nghiệp trong quá trình sản xuất lại không được nhắc đến. Nguyễn Công
Thành (2009) chỉ ra những yêu cầu để có được sinh thái học công nghiệp gồm: tạo ra hệ thống
sinh thái công nghiệp khép kín; cân đối các đầu vào và đầu ra với năng lực của môi trường sinh
thái; phi vật chất hóa trong sản xuất công nghiệp; nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất; xây
dựng hệ thống chính sách phù hợp với mục tiêu của sinh thái công nghiệp [15]. Tiếp tục về khái
niệm KCNST, cũng như các khái niệm khác về KCNST, Phạm Nguyễn Ngọc Anh cho rằng
KCNST là một cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ có mối liên kết mật thiết trên
cùng một lợi ích: hướng tới một hoạt động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất lượng
cao, thông qua sự hợp tác trong việc quản lí các vấn đề môi trường và nguồn tài nguyên [11].
Khác với Phạm Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Cao Luận đưa ra đặc điểm của KCNST và nêu rõ
những yêu cầu trong liên kết của vòng tuần hoàn vật chất của cộng sinh công nghiệp bao gồm: (i)
một mạng lưới các doanh nghiệp sử dụng các bán thành phẩm, phế phẩm hay phụ phẩm của nhau;
(ii) một tập hợp các doanh nghiệp tái chế; (iii) một tập hợp các công ty có công nghệ sản xuất bảo
vệ môi trường; sản xuất sản phẩm “sạch”; (iv) một KCN được thiết kế theo một chủ đề môi
trường nhất định; (v) một KCN với hệ thống hạ tầng kĩ thuật và công trình xây dựng bảo vệ môi
trường; (vi) một khu vực phát triển hỗn hợp và đồng bộ [16].
Như vậy, KCNST là trường hợp KCN cụ thể áp dụng lí thuyết sinh thái học công nghiệp, đó
là một tập hợp công nghiệp, có mối liên kết với nhau theo quan hệ cộng sinh công nghiệp nhằm
mục tiêu sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế và đạt được các mục tiêu về môi trường, xã hội. Tuy
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiTrịnh Thị Tuyết Dung
154
nhiên, sự phát triển của KCNST vượt quá những khung khổ mà một KCN thông thường trên các
khía cạnh: Mối liên kết giữa các khâu của các đơn vị sản xuất; Các vấn đề xã hội; Và các vấn đề
khác về phạm vi không gian, quy hoạch…Nếu như trong KCN chỉ dừng lại việc cùng sử dụng
chung cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lí nước thải rác thải, hay các dịch vụ cho KCN như môi trường,
bảo vệ... thì trong KCNST yêu cầu cao hơn bởi các liên kết giữa các doanh nghiệp theo kiểu quan
hệ cộng sinh công nghiệp trong việc sử dụng vật liệu đầu ra, đầu vào. Do yếu tố về liên kết là tối
quan trọng, cũng như khái niệm chất thải dường như không còn đối với một KCNST hoàn thiện
nên vấn đề về ranh giới của KCNST với khu vực dân cư không còn quan trọng như trong trường
hợp của một KCN thông thường. Ngoài ra, KCNST còn muốn đạt được các yêu cầu về xã hội
nhằm đảm bảo dịch vụ xã hội cho người lao động. Cuối cùng, mục tiêu phát triển KCNST là rõ
ràng hơn nhằm tăng hiệu suất sử dụng năng lượng và nguồn vật chất giữa các đơn vị sản xuất.
Yếu tố quan trọng là sự hợp tác giữa các bên, và tính liên kết là một thước đo quan trọng.
2.3. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Hàn Quốc
2.3.1. Hoàn cảnh ra đời
Tương tự như các quốc gia phát triển công nghiệp trước đó như Nhật Bản và Tây Âu, Hàn
Quốc cũng gặp các vấn đề tương tự bao gồm ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên và năng
lượng. Dưới góc độ tổ chức lãnh thổ công nghiệp, những năm 1970s, có sự thay đổi mạnh mẽ
trong chính sách công nghiệp với sự ra đời của “Luật về khuyến khích phát triển cơ sở công
nghiệp” dẫn đến sự hình thành các KCN đặc biệt (ICs) với quy mô lớn như Ulsan, Pohang cũng
như các cụm công nghiệp nhỏ. Năm 2005, Hàn Quốc chính thức bắt đầu đưa ra sáng kiến về phát
triển KCNSTvới 5 trường hợp thí điểm là: Ulsan, Pohang, Yeosu (vào năm 2015) và BanwolSihwa và Cheongju (vào năm 2016) [7].
2.3.2. Đặc điểm
KCNST ở Hàn Quốc được phát triển dựa trên các KCN phức hợp (CIs). Trong giai đoạn đầu
chú trọng vào việc chuyển đổi mô hình, xây dựng nền tảng cơ bản cho việc phát triển mô hình
KCNST riêng của Hàn Quốc. Trên lí thuyết, KCNST phát triển theo chiến lược của Hàn Quốc
nằm trong phạm vi các cụm, KCN. Trên thực tế, các mối liên kết theo ngành đã vượt ra khỏi phạm
vi một KCN thông thường. Mặc dù trong giai đoạn đầu, giới hạn không gian của các liên kết trong
các KCNST còn đơn giản, nhưng ở các giai đoạn sau, liên kết trong các KCNST phát triển theo
hướng đan xen kiểu nan hoa [6], Ví dụ dự án liên kết trong Pohang. Trong giai đoạn đầu, các dự
án KCNST ở Hàn Quốc chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, phát triển công nghệ, phổ biến và xây
dựng năng lực. Hoạt động trong các KCNST còn một số vấn đề hạn chế nhất là trong cơ chế phối
hợp và chia sẻ lợi ích giữa các doanh nghiệp.
2.3.3. Chính sách pháp luật
Thành công của việc phát triển KCNST ở Hàn Quốc cần kể đến 2 vấn đề hết sức quan trọng
gồm: Sáng kiến KCNST; Và nền tảng chính sách tạo điều kiện cho việc thực thi các liên kết và
hợp tác lưu chuyển dòng vật chất.
Thứ nhất, Hàn Quốc triển khai chương trình sáng kiến về KCNST để tạo ra những giá trị mới
từ các dòng vật chất và năng lượng chưa được tận thu trên nguyên tắc của sinh thái học công
nghiệp. Chương trình sáng kiến KCNST được thực hiện có lộ trình và phân vai rõ ràng cho các
đơn vị có liên quan bao gồm: Bộ thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (MOCIE),
Trung tâm sản xuất sạch hơn Hàn Quốc (KNCPC), và KICOX (Công ty phức hợp KCNST) (
Bảng 1 [xem thêm 20]).
Bộ công nghiệp Hàn Quốc (MOTI - Tiền thân là MOCIE) đóng vai trò thiết lập và thi hành
chính sách cho KCNST, cung cấp gói tài chính cho KCNST. Ngoài ra, còn thực hiện nhiệm vụ
đánh giá hàng năm các dự án KCNST đang thực hiện. KICOX có nhiệm vụ: quản lí các KCNST,Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam
155
5 trung tâm KCNST cấp vùng; lập kế hoạch; quản lí các gói tài trợ; và tổ chức lấy ý kiến đánh giá
của tư vấn khu vực. Với vai trò là một ủy ban đánh giá, KICOX thiết kế KCNST, đánh giá dự án
KCNST và trung tâm KCNST cấp vùng. Ngoài ra, còn tiến hành rà soát các vấn đề cốt lõi của
việc phát triển KCNST. Trung tâm KCNST khu vực giữ nhiệm vụ thực hiện đánh giá kế hoạch
cấp vùng, phát triển, hỗ trợ và giám sát các dự án với sự giúp đỡ của Ủy ban tư vấn khu vực thông
qua hoạt động hỗ trợ, tư vấn dự án, hướng dẫn hoạt động cho văn phòng khu vực.
Bảng 1. Các giai đoạn phát triển KCNST ở Hàn Quốc


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D kinh nghiệm dạy học môn âm nhạc phát triển năng lực cho học sinh tiểu học đáp ứng mục tiêu chương trình gdpt 2018 Luận văn Sư phạm 0
D Phát triển dịch vụ Logistics tại Singapore bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng phát triển hoạt động logistics của nhật bản và bài học kinh nghiệm cho việt nam Luận văn Kinh tế 0
D Kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh tại một số nước và bài học cho Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Mô hình phát triển của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: KINH NGHIỆM CỦA Khoa học kỹ thuật 0
M Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc và vận dụng đối với phát triển khu công nghiệp, kh Luận văn Kinh tế 0
H Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà n Luận văn Kinh tế 0
D Kinh nghiệm phát triển công nghiệp điện tử ở Châu Á Công nghệ thông tin 0
A Mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol Hàn Quốc - Bài học kinh nghiệm và chính sách phát triển mô hình tập Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top