tctuvan

New Member
Tính đến năm 2013 là tròn 40 năm Hiệp định hòa bình Paris được ký kết.
Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng đóng góp cho thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao của Việt Nam, với sự tham gia của rất nhiều người, nhiều đoàn thể, tổ chức, chính đảng, thông qua nhiều biện pháp và cách thức khác nhau…
Bối cảnh Hội nghị Paris



Vào cuối năm 1964 đầu năm 1965, trước những đòn tiến công mãnh liệt của quân và dân miền Nam, cả về quân sự và chính trị, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của người Mỹ đã phá sản hoàn toàn. Ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Hòng cứu vãn tình
thế
, Mỹ thay đổi chiến lược, từ “chiến tranh đặc biệt” chuyển thành “chiến tranh cục bộ”, mà thực chất là Mỹ hóa

cuộc
chiến tranh đang diễn ra tại miền Nam Việt Nam. Một mặt, Mỹ ồ ạt đưa quân chiến đấu vào miền Nam, mặt khác, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc, đưa chiến tranh xâm lược ra cả nước ta.
Trong quãng thời gian từ năm 1965 đến năm 1967, Mỹ điên cuồng leo thang chiến tranh. Với mục đích “lừa dối” dư luận, chính quyền Johnson rêu rao “miền Bắc xâm lược miền Nam” và mở
cuộc

vận động “ngoại giao hòa bình”, đòi “miền Bắc đình chỉ thâm nhập người và công cụ chiến tranh vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam” và “
đàm


phán

không điều kiện với Mỹ”. Trước tình hình có nhiều biến chuyển trái ngược, ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận định, Mỹ buộc phải tiến hành “chiến tranh cục bộ” là vì chúng đang ở trong
thế
bị động về chiến lược. Mặc dù, Mỹ đưa vào miền Nam mấy chục vạn quân và đánh phá ác liệt miền Bắc, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch không có thay đổi lớn. Ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững
thế
chủ động trên chiến trường, đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch.



Quả đúng như vậy, trên thực tế đã chứng minh điều Đảng ta nhận định hoàn toàn chính xác, Mỹ càng leo thang chiến tranh thì càng vấp phải những đòn giáng trả mãnh liệt của ta, cuối cùng, càng thấy đất trời mù mịt. Về mặt ngoại giao, ta nêu cao chính nghĩa của
cuộc

chiến đấu, bóc trần bộ mặt xâm lược và tính chất nguy hiểm của các hành động leo thang chiến tranh cùng thủ đoạn
đàm


phán
hòa bình giả hiệu của địch. Theo đó, ta kiên quyết đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút hết quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt vô điều kiện mọi hành động chiến tranh chống miền Bắc. Điều kiện tiên quyết của ta cho

đàm


phán
là: Chỉ khi nào Mỹ chịu chấm dứt ném bom, Việt Nam dân chủ cộng hòa mới nói chuyện với Mỹ.


Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Đêm 31-3-1968, phát biểu trên đài truyền hình Mỹ, Tổng thống Johnson thừa nhận thảm bại trong Tết Mậu Thân và thông báo, đã ra lệnh chấm dứt mọi
cuộc


tiến công bằng máy bay và tàu chiến chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía bắc khu phi quân sự. Johnson còn cam kết “sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường xuống thang” và không ra tranh cử tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Trong tình
thế
đã thay đổi có lợi cho ta, bằng một đòn tiến công ngoại giao mới, ta chấp nhận ngồi vào bàn

đàm


phán
với Mỹ,


cuộc


đàm


phán
dài nhất để chấm dứt một


cuộc

chiến tranh dài nhất trong
thế


kỷ
20.


Ngày 13-5-1968,
cuộc


đàm


phán
giữa phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa và phái đoàn Mỹ bắt đầu tại Paris và gần 6 tháng sau đi đến thỏa thuận về việc Mỹ chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ ngày 31-10-1968, đồng thời thỏa thuận về việc triệu tập tại Paris một hội nghị để bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, gồm các bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Paris về Việt Nam họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn “vừa đánh, vừa

đàm
”. Hội nghị Paris tuy là câu chuyện ngoại giao của 2 quốc gia nhưng lại là tiêu điểm của những mâu thuẫn và xung đột mang tính thời đại: Giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc và các
thế
lực phản động, giữa hòa bình với chiến tranh. Đó là


cuộc

đối thoại giữa một bên là lực lượng xâm lược có
thế
mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại có
thế
yếu về chính trị, tinh thần; một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy có điểm yếu tương đối về quân sự và kinh tế nhưng lại có
thế
mạnh tuyệt đối về chính trị, chính nghĩa. Đó còn là

cuộc
đối chọi giữa hai nền ngoại giao, một bên là nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường; một bên là nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Ở Paris đã diễn ra
cuộc
đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau. Cả ta và đối phương đều đến hội nghị với những mục đích và đòi hỏi đối lập nhau. Ta đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Mỹ cũng nói muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng lại đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân; đòi khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn…



Phái đoàn miền Bắc Việt Nam tại bàn ký kết Hiệp định Paris năm 1973.
Hiệp định “tạo” mốc lịch sử


Cũng bởi những đòi hỏi khác nhau đó mà
đàm


phán
vừa mở ra mấy tháng đã giậm chân tại chỗ. Để khai thông, ngày 8-5-1969, đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm về việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Đáp lại, ngày 14-5-1969, Tổng thống Mỹ R.Nixon, qua diễn văn đọc trên truyền hình Mỹ, đã đưa ra 8 điểm của giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Giải pháp của hai bên vẫn đối chọi nhau như nước với lửa. Ngày 6-6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Ngày 8-6, Tổng thống Nixon công bố chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, chủ trương tìm một con đường khác chứ không phải thông qua

đàm


phán
để rút quân Mỹ ra khỏi chiến tranh mà vẫn giữ được chính quyền và quân đội Sài Gòn. Nhưng tất cả những kỳ vọng của người Mỹ đều bị vùi dập, thực tiễn cho thấy, những gì Mỹ mong muốn trên chiến trường cũng như trên bàn

đàm


phán
đều không đạt được. Những năm 1969 – 1972 là những năm giằng co quyết liệt giữa hai bên trên chiến trường cũng như tại bàn

đàm


phán
.

Đàm


phán
thực chất chỉ diễn ra sau khi Mỹ đã cảm nhận được thất bại của chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” trên chiến trường. Từ cuối năm 1971 đến những tháng cuối năm 1972, cả ta và Mỹ đều đưa ra những đề nghị mới, thông qua

đàm


phán
công khai và

đàm


phán
riêng, cuối cùng đi đến thỏa thuận về một văn bản hiệp định.

Trong lịch sử đấu tranh của nhân dân ta, chưa bao giờ có
cuộc


đàm


phán
nào kéo dài như tại Hội nghị Paris, từ ngày 15-3-1968 đến ngày 27-1-1973, cụ thể kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng,


cuộc
đấu tranh của nhân dân ta trên bàn thương lượng đã giành được thắng lợi. Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của
cuộc
đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Với hiệp định, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt dính líu quân sự. Chính quyền ngụy mất chỗ dựa, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng. Mỹ phải lùi về chiến lược, rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và là cơ sở pháp lý không cho phép Mỹ tiếp tục dính líu và can thiệp trở lại. Với Hiệp định Paris, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”. Đó là tiền đề tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Hiệp định Paris năm 1973 phản ánh được ở mức cao thắng lợi và xu
thế


cuộc

đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên kết, nhân dân
thế
giới và hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân
thế
giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự hình thành của mặt trận nhân dân
thế
giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân. Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia. Giải pháp về Lào gần như đồng thời với Hiệp định Paris về Việt Nam, tháng 2-1973. Hiệp định Paris mở đường cho thắng lợi của Campuchia tháng 4-1975.

Đặc biệt, thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra cục diện mới ở Đông Nam châu Á; quân đội Mỹ rút khỏi khu vực, khối SEATO (Liên minh phòng thủ Đông Nam Á) giải tán, xu
thế
hòa bình, trung lập trong khu vực phát triển. Hội nghị Paris đã để lại nhiều bài học lớn lao, trong đó bài học về ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên giá trị thời sự và thiết thực đối với các quốc gia trong một
thế
giới đầy biến động.

Cuộc đàm phán thế kỷ
Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết.
Thời gian càng lùi xa càng khẳng định: Hiệp định Pa-ri là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hiệp định Pa-ri là thắng lợi tổng hợp cuộc đấu tranh của ta trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Trực tiếp là tại Hội nghị Pa-ri - một "cuộc đàm phán lịch sử", một "cuộc hòa đàm thế kỷ", tuy cách nói có khác nhau nhưng nội dung chỉ là một.
Hội nghị Pa-ri về Việt Nam là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20. Đó là cuộc đối thoại giữa hai lực lượng đối đầu trên chiến trường, một bên là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế, nhưng lại có thế yếu về chính trị, tinh thần; một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy còn điểm yếu tương đối về quân sự và kinh tế nhưng lại có thế mạnh tuyệt đối về tinh thần, chính nghĩa. Đó còn là cuộc đối thoại giữa hai nền ngoại giao, một bên là nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường; một bên là nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Ở Hội nghị Pa-ri đã diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Hội nghị Pa-ri là thất bại của Mỹ trên chiến trường, cũng là thắng lợi của ta trong việc liên tiếp đánh bại hai chiến lược chiến tranh của địch: "chiến tranh đặc biệt" và "chiến tranh cục bộ" được Mỹ hóa cao độ với sự có mặt tại chiến trường hơn 550 nghìn quân Mỹ và đồng minh. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn mạnh vào cuộc chiến tranh này, không chỉ làm chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến lược mà còn làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Mỹ hiểu rằng không thể thắng ta bằng chiến tranh. Nếu muốn rút ra khỏi chiến tranh thì không có cách nào khác là phải thông qua thương lượng. Sức ép càng thêm nặng khi phong trào hòa bình của nhân dân Mỹ và sự chia rẽ trong chính giới Mỹ ngày một gia tăng.
Vì vậy chính quyền Mỹ đã phải chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri.
Còn ta, đàm phán là để mở ra một mặt trận mới về ngoại giao, một cục diện vừa đánh vừa đàm. Ta hiểu rõ, trên bàn đàm phán ta không thể giành lấy cái mà trên chiến trường ta không giành được. Thực lực trên chiến trường là quyết định nhất. Tài trí ngoại giao không thể thay thế cho thực lực. Nhưng ta có thể sử dụng diễn đàn đàm phán để tiến công cô lập địch, vạch trần tính chất
phi
nghĩa, âm mưu và hành động kéo dài chiến tranh của Mỹ, đòi Mỹ phải xuống thang; đề cao chính nghĩa của ta, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của dư luận, phục vụ cho đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường giành thắng lợi.

Đàm phán Pa-ri bao gồm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1 là đàm phán hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ, kéo dài trong sáu tháng, từ ngày 13-5 đến hết tháng 10-1968.
Kết quả: ta đã buộc Mỹ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bm miền Bắc và các hành động chiến tranh khác (ngày 31-10-1968), chấp nhận nói chuyện với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên.
Giai đoạn 2 là đàm phán bốn bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng, sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn, kéo dài bốn năm, từ tháng 1-1969 đến tháng 1-1973.
Đây là giai đoạn đàm phán gay go và quyết liệt nhất.
Cả ta và đối phương đều đến bàn đàm phán với mục đích, lập trường và đòi hỏi hoàn toàn đối lập nhau.
Ta khẳng định Mỹ là kẻ xâm lược, đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam mà không đặt điều kiện nào, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và các quyền dân tộc

bản của nhân dân Việt Nam. Mỹ thì ngược lại, cho rằng miền Bắc xâm lược miền Nam, đòi hai bên cùng rút quân, duy trì chính quyền Sài Gòn, khôi phục lại khu

phi
quân sự và ngừng bắn, thực chất là tiếp tục âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam.

Chính vì sự đối lập như nước với lửa ấy mà đàm phán diễn ra quyết liệt và căng thẳng suốt từ đầu đến cuối. Đối tượng đàm phán của ta trước sau vẫn là chính quyền Mỹ. Nhưng ở giai đoạn 1, đó là chính quyền Giôn-xơn. Ở giai đoạn 2, đó là chính quyền Ních-xơn. Thay cho chính sách Mỹ hóa chiến tranh đã phá sản, chính quyền Ních-xơn đề ra chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, chủ trương tìm một con đường khác để rút dần quân Mỹ ra khỏi chiến tranh mà vẫn duy trì được chính quyền và quân đội Sài Gòn trong một miền Nam bị chia cắt.
Thực hiện chính sách ấy, tại bàn đàm phán, Mỹ đẩy Hội nghị Pa-ri vào thế giẫm chân tại c
hỗ
và bế tắc. Trên chiến trường, Mỹ tiến hành bình định quyết liệt, đồng thời mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia và Lào. Về ngoại giao, chính quyền Ních-xơn tìm cách lợi dụng mâu thuẫn Xô-Trung trong quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm một giải pháp thương lượng theo điều kiện có lợi cho Mỹ.

Những năm 1969-1971 là những năm giằng co quyết liệt giữa ta và địch trên chiến trường cũng như tại bàn đàm phán. Chủ trương của ta là kiên quyết giữ vững và thông qua diễn đàn Pa-ri, thực hiện sự phối hợp đấu tranh ngoại giao với hoạt động quân sự, chính trị, phá chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", kéo Mỹ xuống thang, phê phán chính sách rút quân nhỏ giọt, đòi Mỹ phải định ra thời hạn rút hết quân, bảo đảm cho quân và dân miền Nam tiếp tục đánh mà dư luận vẫn đồng tình ủng hộ cuộc chiến đấu của ta. Những đề nghị hai đoàn Việt Nam đưa ra trong những năm này đều có tiếng vang lớn.
Đàm phán thực chất chỉ diễn ra sau khi Mỹ đã cảm nhận được thất bại của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, nhất là sau thắng lợi của ta ở Đường 9 - Nam Lào và sau chiến dịch Xuân Hè 1972, giải phóng thêm được nhiều vùng rộng lớn.
Từ cuối năm 1971 đến mùa thu năm 1972, cả ta và Mỹ đều đưa ra những đề nghị mới, thông qua đàm phán công khai và đàm phán riêng, đi đến thỏa thuận một văn bản Hiệp định vào ngày 20-10-1972. Nhưng rồi trước sự phản ứng dữ dội của chính quyền Sài Gòn, và sau khi Ních-xơn trúng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai, Mỹ đã lật lọng đòi sửa đổi hầu hết những điều

bản trong Hiệp định ấy. Ta kiên quyết bác bỏ những đòi hỏi đó.

Không ép được ta, chính quyền Ních-xơn đã tung ra con "át chủ bài" cuối cùng, mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác. Cuộc tập kích chiến lược ấy đã bị giáng một đòn chí mạng. Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" của ta đã buộc Mỹ trở lại bàn đàm phán và đi đến ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27-1-1973.
Với Hiệp định Pa-ri, Mỹ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam, trong khi quân đội miền Bắc vẫn ở lại. Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam được tôn trọng. Ở miền Nam cùng tồn tại hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát.
Hiệp định Pa-ri đáp ứng những yêu cầu

bản có tính nguyên tắc mà Việt Nam đã nêu lên trong đàm phán.

Hiệp định Pa-ri thật sự khép lại giai đoạn "đánh cho Mỹ cút" và mở ra giai đoạn "đánh cho ngụy nhào".
Hai năm sau Hiệp định Pa-ri là hai năm chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại việc thi hành Hiệp định, cũng là hai năm quân và dân ta tiếp tục cuộc chiến đấu đập tan những hành động phá hoại ấy, và tiến lên làm nên một Đại thắng mùa Xuân lịch sử ngày 30-4-1975, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng!
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top