daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC do Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn thực hiện

Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC do công ty cổ phần kiểm toán và tư vấn thực hiện​

Lêi nãi ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuẩn bị cho nền kinh tế hội nhập và phát triển, các Công ty kiểm toán phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ mình cung cấp. Lập kế hoạch một cách khoa học, hiệu quả là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả cuộc kiểm toán. Hiện nay các công ty kiểm toán trên hàng đầu thế giới hầu hết đã xây dựng cho mình một quy trình chuẩn và các hướng dẫn cụ thể đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC, giúp các KTV thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả, tránh được những rủi ro không mong muốn và giảm chi phí kiểm toán mà vẫn đạt được hiệu quả về mặt chất lượng. Còn ở Việt Nam, việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán chưa thực sự được các KTV quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC là một vấn đề cần được quan tâm hiện nay của các Bộ, ban, ngành, các tổ chức cũng như các KTV. Đó chính là lí do em chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC do Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn thực hiện” làm Luận văn tốt nghiệp Đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lí thuyết kiểm toán đặc biệt là đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC vận dụng vào phân tích thực tiễn công tác kiểm toán của Công ty, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC do A&C thực hiện.
3. Nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Chương II: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán do Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn A&C thực hiện
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán do Công ty cổ phần kiểm toán và Tư vấn thực hiện
4. Phương pháp nghiên cứu
Với những kiến thức được học và tự tích lũy, em đã thực hiện Luận văn tốt nghiệp Đại học của mình bằng lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bằng các phương pháp của toán học, của nghiệp vụ kế toán và kiểm toán. Luận văn sẽ được trình bày theo phương pháp kết hợp giữa tổng hợp và phân tích, giữa diễn giải và quy nạp cũng như sự kết hợp giữa phương pháp trình bày bằng văn nói với sơ đồ, bảng biểu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian nên Luận văn mới chỉ đi sâu nghiên cứu việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch đối với kiểm toán độc lập mà chưa đi sâu nghiên cứu được việc vận dụng trọng yếu trong quá trình thực hiện kiểm toán và quá trình đánh giá và vận dụng trọng yếu và rủi ro kiểm toán đối với các lĩnh vực kiểm toán khác.
6. Những đóng góp
Qua Luận văn này, em đã cố gắng tìm hiểu về lí luận chung quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC, mô tả và phân tích quá trình thực hiện tại Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và viết bài hạn hẹp, trình độ và kinh nghiệm còn chưa tích lũy được nhiều nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy giáo, các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn góp ý để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, cùng các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua.
Sinh viên thực hiện
Đặng Thị Quỳnh Trang


CHƯƠNG I
Những vấn đề lí luận chung về đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính

1.1. Bản chất, vai trò của trọng yếu và rủi ro và mối quan hệ giữa trọng yếu với rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
1.1.1. Bản chất của trọng yếu trong kiểm toán BCTC
Theo Từ điển Tiếng Việt, “trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh được đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan trọng” (6,777) nghĩa là nó có ảnh hưởng lớn tới những vấn đề liên quan.
Trong kế toán, nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú trọng đến những vấn đề mang tính chất cốt yếu, quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Trong kiểm toán, trọng yếu là một khái niệm thường xuyên được nhắc đến, đặc biệt là trong kiểm toán BCTC. Hiện đã có rất nhiều tài liệu có định nghĩa về trọng yếu trong kiểm toán BCTC. Có thể trích dẫn từ một số nguồn sau:
Theo ISA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có” (9,102).
Theo IAG số 25 do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm”(2,2).
VSA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” định nghĩa: “Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính”(12,18)
Theo Giáo trình Lí thuyết kiểm toán “Trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lí”(7,86).
Từ các định nghĩa trên ta thấy, dù ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trọng yếu đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong BCTC mà nếu thiếu nó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó thì sẽ ảnh hưởng đến người sử dụng BCTC về nhận thức, từ đó ảnh hưởng đến việc đánh giá các thông tin trên BCTC và ra quyết định quản lí. Trên góc độ của người sử dụng thông tin, nói một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của người sử dụng.
Đồng thời, trong các khái niệm “trọng yếu” cũng bao hàm hai mặt liên quan đến nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
Thứ nhất: Quy mô của khoản mục, nghiệp vụ
Thông thường, xem xét vấn đề về quy mô của đối tượng kiểm toán cần quan tâm tới quy mô tương đối. Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh gia với một số gốc. Chẳng hạn, với BCKQHĐKD, số gốc có thể là Doanh thu thuần; với BCĐKT, số gốc có thể là tổng tài sản hay tài sản lưu động…Nhưng cũng có khi KTV sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần nhắc thêm bất cứ một yếu tố nào khác. Chắng hạn, một vài KTV cho rằng “một triệu USD hay một con số lớn hơn thì luôn là con số trọng yếu, không cần quan tâm đến vấn đề nào khác”(7,87).
Xét trong mối quan hệ giữa BCTC với mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán, có 2 mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp vụ ảnh hưởng đến việc đánh giá trọng yếu.
Một là, quy mô nhỏ - không trọng yếu: Một khoản mục, nghiệp vụ, sai phạm với quy mô nhỏ trong BCTC hay trong kết quả chung của hoạt động kiểm toán thì thường được coi là không trọng yếu. Bởi vì việc phản ánh đúng hay sai khoản mục, nghiệp vụ này không ảnh hưởng đến quy mô chung trên BCTC, từ đó không ảnh hưởng đến nhận thức về bản chất đối tượng kiểm toán cũng như người sử dụng thông tin không đi đến quyết định sai lầm.
Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá trọng yếu cần phải liên hệ với quy mô và loại hình doanh nghiệp. Ví dụ: Khoản mục vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhờn nhưng lại trọng yếu trong sản xuất thủy tinh, gốm sứ…Một khoản mục có giá trị là 4.000.000VND trong khi tổng tài sản là 4.000.000.000VND sẽ được đánh giá là không trọng yếu, nhưng nếu tổng tài sản là 10.000.000VND thì sẽ được đánh giá là trọng yếu. Vì vậy, trong kiểm toán cần phải xem xét cả định tính và định lượng (nếu có).
Hai là, quy mô lớn: Thông thường, một khoản mục có quy mô lớn sẽ ảnh hưởng đến nhận thức đúng thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh hưởng đến kết luận kiểm toán cũng như quyết định quản lí kinh tế. Khoản mục có quy mô lớn được xác định trong tương quan với BCTC, cụ thể hơn trong tương quan với khoản mục, nghiệp vụ có quy mô nhỏ thường được đánh giá là trọng yếu. Ví dụ: khoản mục tài sản cố định hay nghiệp vụ xây lắp, khấu hao tài sản cố định thường có quy mô lớn trên BCĐKT, cũng như trong tương quan với các khoản mục dụng cụ nhỏ, các nghiệp vụ phân bổ chi phí dụng cụ, do đó chúng được đánh giá là trọng yếu.
Quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy mô bằng con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm toán. Về định lượng, đó là những tỉ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với một cơ sở để tính toán như: Tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận trước thuế… Ngoài ra còn phải xem xét đến đối tượng cụ thể cũng như mục tiêu của cuộc kiểm toán. Đối với những khoản mục có quy mô lớn nhưng chưa đủ mức quyết định nhận thức đối tượng có thể sẽ không được coi là trọng yếu.
Ngoài ra, khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, KTV cần phải chú ý không chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà còn phải cân nhắc cả sự ảnh hưởng lũy kế của đối tượng xem xét. Đoạn 17, VSA số 240 “Gian lận và sai sót” cũng quy định: “KTV không được cho rằng các gian lận và sai sót xảy ra là đơn lẻ và biệt lập, trừ khi đã xác định rõ ràng”(11,6). Chẳng hạn, có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ, song nếu KTV cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng.
Đoạn 07, VSA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”: “KTV cần xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”(12,19).Như vậy, các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần tổng sai sót sẽ lớn và ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính thì được coi là trọng yếu. KTV phải đề nghị khách hàng điều chỉnh nhằm tránh trường hợp các sai sót sẽ lặp lại.
Đặc biệt, quy mô trọng yếu còn tùy thuộc và từng cuộc kiểm toán có đối tượng và mục tiêu khác nhau, chẳng hạn, kiểm toán tài chính hay kiểm toán hiệu quả với chức năng xác minh hay tư vấn…
Thứ hai: Bản chất của nghiệp vụ, khoản mục trong mối quan hệ với trọng yếu
Trong kiểm toán BCTC, KTV đánh giá tính trọng yếu cần tùy thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp, hệ thống tổ chức và quản lí của doanh nghiệp. Đồng thời cần có sự am hiểu các quy định về tài chính kế toán, các quy định pháp luật đối với doanh nghiệp và dựa vào kinh nghiệm nghề nghiệp của KTV.
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng.
C¸c kho¶n môc, nghiÖp vô cã gian lËn hoÆc cã chøa ®ùng kh¶ n¨ng gian lËn:
+ Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp;
+ Các nghiệp vụ thanh lí tài sản;
+ Các nghiệp vụ về tiền mặt: Các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận);
+ Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: Doanh nghiệp và khách hàng hoặc nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về thực trạng hoạt động của mình);
+ Các nghiệp vụ bất thường: Các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: Các nghiệp vụ liên quan đến quyền lợi bao giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho bản thân mình;
+ Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách;
+ Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kì quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới phát sinh. Thông thường, vào cuối kì quyết toán, để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã đề ra hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa, thiều, kế toán thường đưa thêm một số bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kì quyết toán thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới phát sinh thì KTV cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó từ trước đến giờ mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lí đúng chưa và từ đó đi tìm bằng chứng để chứng minh;
+ Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa;
+ Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lí nói chung: Có ảnh hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như các cá nhân có liên quan.
C¸c kho¶n môc, nghiÖp vô cã sai sãt (kh«ng cè ý) hÖ träng:
Các nghiệp vụ này xảy ra thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu cẩn trọng của kế toán.
+ Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với các kì trước hoặc giữa các nguồn thông tin liên quan;
+ Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin;
+ Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kì sau;
+ Các sai sót có ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một khoản lỗ được báo cáo như là môt khoản lãi hoặc ngược lại cũng là một vấn đề cần được quan tâm;
+ Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC;
+ Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của doanh nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất của thông tin.

3.4. Kiến nghị đối với cơ quan chức năng của Nhà nước
* Với Nhà nước
Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam chỉ mới thực sự ra đời từ năm 1991, hiện nay vẫn còn rất non trẻ. Do mới ra đời được 13 năm nên các quy định pháp lí đối với hoạt động kiểm toán độc lập bao gồm: Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ, một số Quyết định, Thông tư của Bộ Tài chính như Thông tư số 22TC/CĐKT ngày 19/3/1994, Quyết định 23/TC/CĐKT ngày 19/3/1994, Quyết định số 38/2000/QĐ-BTC ngày 14/3/2000, Quyết định số 489/QĐ-BTC, Thông tư số 107/2000/TT-BTC ngày 25/10/2000Ặ và mới đây có ban hành thêm Nghị đinh 105/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/3/2004 quy định về hoạt động kiểm toán độc lập.
Nhìn chung, hệ thống văn bản này chưa tương xứng với thị trường kiểm toán Việt Nam. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp lí về kế toán, kiểm toán được ban hành có khi lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau gây khó khăn cho người thực hiện công tác kế toán, kiểm toán. Luật Kế toán ra đời đã phần nào giảm bớt những khó khăn đó. Vì vậy, việc ban hành Luật Kiểm toán và các văn bản pháp lí khác nhằm quản lí hoạt động của các công ty kiểm toán la một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Đối với các Chuẩn mực nghề nghiệp, Việt Nam hiện nay chưa ban hành đầy đủ Chuẩn mực Kế toán, Kiểm toán làm cơ sở cho việc đào tạo, thực hiện kiểm toán và đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, Bộ Tài chính mới ban hành 27 VSA so với 36 Chuẩn mực Kiểm toán như dự kiến và cũng chỉ mới ban hành 16 Chuẩn mực Kế toán.
Theo kinh nghiệm của các công ty kiểm toán trên thế giới, hoạt động kiểm toán chỉ có thể phát triển nhanh chóng và toàn diện trong một môi trường pháp lí đã đầy đủ bao gồm các quy định mang tính pháp lí về quản lí hoạt động kiểm toán và những quy định mang tính chuẩn mực nghề nghiệp. Do đó, Chính phủ cũng như Bộ Tài chính cần nhanh chóng cho ban hành Luật Kiểm toán cũng như các văn bản pháp lí về quản lí để đảm bảo hoạt động thành lập công ty kiểm toán, quản lí các công ty kiểm toán, hoạt động kiểm toán được quy đinh rõ ràng, đầy đủ, đồng thời đảm bảo không có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp lí và giữa văn bản pháp lí với thực tiễn hoạt động.
Việc ban hành Luật Kiểm toán sẽ giúp chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức kiểm toán, quản lí chặt chẽ hoạt động kiểm toán góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả công tác kiểm toán.
Theo Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn thì “Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lí luận là hoạt động tinh thần; thực tiễn đóng vai trò quyết định đối với lí luận. Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người. Nhưng tri thức kinh nghiệm lại có hạn chế bởi trình độ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng.Tuy nhiên, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lí luận lại có khả năng xa rời thực tiễn, trở thành ảo tưởng, giáo điều. Vì vậy phải coi trọng lí luận nhưng không cường điệu vai trò của lí luận, coi thường thực tiễn, tách rời lí luận với thực tiễn” (14,). Theo đó, khi ban hành các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán cũng như ban hành các văn bản luật pháp, Nhà nước phải luôn gắn liền lí luận với thực tiễn, không xa rời thực tiễn, hướng dẫn KTV thực hiện công việc của mình một cách tốt nhất.
Ngoài ra, Bộ Tài chính phải quy định chương trình bắt buộc (cập nhật và nâng cao kiến thức) tối thiểu để các công ty kiểm toán đầu tư đúng mức về đào tạo đồng thời tổ chức đào tạo cho các công ty kiểm toán theo hướng mời các chuyên gia nước ngoài.
* Với Hiệp hội nghề nghiệp
Để tạo đủ điều kiện hội nhập trong lĩnh vực kế toán – kiểm toán, các Hiệp hội nghề nghiệp cần quan tâm tới việc nâng cao chất lượng KTV, củng cố hoạt động của các hiệp hội, tổ chức kế toán kiểm toán. Những công việc mà Hiệp hội cần thực hiện để đạt được mục tiêu đó là:
- Tăng cường đào tạo, thi tuyển, cấp chứng chỉ hành nghề;
- Quản lí chặt chẽ hoạt động nghề nghiệp của KTV;
- Đổi mới phương pháp giảng dạy, phương thức đào tạo và quản lí đào tạo. Phân công đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức và cập nhật kiến thức hàng năm cho cán bộ kiểm toán cũng như các vấn đề xử lí thông tin trong điều kiện tin học hóa công tác kế toán, kiểm toán;
- Đổi mới chương trình đào tạo bồi dưỡng kế toán, KTV trong các trường đại học, nâng cao chất lượng thi tuyển KTV, hợp tác với tổ chức quốc tế để đào tạo và thi tuyển kiểm toán Việt Nam đạt trình độ quốc tế;
- Tăng cường kiểm tra hoạt động nghề nghiệp của các công ty nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động;
- Tăng cường chức năng, năng lực Hội nghề nghiệp kế toán-kiểm toán, tiến tới thành lập chi hội kiểm toán để các công ty kiểm tra giám sát lẫn nhau về chất lượng kiểm toán và thực hiện quy chế về đạo đức nghề nghiệp.
* Với KTV
KTV là người trực tiếp thực hiện công việc kiểm toán, chính vì vậy, tự bản thân mỗi KTV phải nhận thấy được trình độ, năng lực cũng như kinh nghiệm của mình quyết định thế nào đến chất lượng cuộc kiểm toán. Hơn nữa trong cơ chế cạnh tranh ngày nay, không phải chỉ có các công ty kiểm toán cạnh tranh với nhau mà chính bản thân các KTV cũng phải tự nâng cao năng lực của mình bởi cơ chế “săn đầu người” của các công ty kiểm toán. Nếu không có đủ trình độ và không ngừng học hỏi thì sẽ bị loại khỏi công ty kiểm toán.

KÕt luẸ̈n
Q
ua việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC áp dụng tại A&C có thể thấy đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán có vai trò quan trọng đối với công tác lập kế hoạch, thiết kế chương trình kiểm toán một cách hiệu quả và từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc kiểm toán. Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là phần việc quan trọng và chiếm nhiều thời gian công sức nhất trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán một cách hợp lí và khoa học sẽ góp phần làm tăng hiệu quả của cuộc kiểm toán, nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán, từ đó tạo sự phát triển vững mạnh cho A&C trong môi trường cạnh tranh hiện nay.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán (chủ yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán) của A&C dựa trên cơ sở lí luận được trang bị trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học



Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D hoàn thiện mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn thành phố Quy Nhơn Khoa học Tự nhiên 0
D hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong kiểm toán bctc do aasc thực hiện Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong kiểm toán bctc AAC Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn thiện công tác quản lý quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ Văn hóa, Xã hội 0
D Hoàn thiện quy trình giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại công ty TNHH PCSC Luận văn Kinh tế 0
D Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hóa tại CTY CP giặt ủi y tế VT Y dược 0
D HOÀN THIỆN QUY TRÌNH THỦY CANH RAU CẢI BÓ XÔI (Spinacia oleracea) TRONG NHÀ LƯỚI Nông Lâm Thủy sản 0
D Hoàn thiện quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên liệu của Công ty cổ phần Dược & Vật tư thú y HANVET Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn Thiện Quy Trình Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Khẩu Bằng Đường Hàng Không Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn thiện quy trình phát triển sản phẩm mới của công ty cổ phần đầu tư – mở du lịch việt nam Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top