daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
SKKN: Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm Truyện Kiều

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Mỗi tác phẩm văn học khi ra đời đều trải qua sự sàng lọc của thời gian để khẳng định giá trị trường tồn của mình. Và giá trị của mỗi tác phẩm đó được thẩm định qua sự tiếp nhận và đánh giá của độc giả. Trong nền văn học Việt Nam thì kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vượt qua bao thăng trầm đã khẳng định được vai trò, giá trị to lớn của mình trong kho tàng văn học và đặc biệt trong tâm hồn người Việt.
Từ xưa đến nay chưa có một tác phẩm văn học nào mà được nhân dân cả nước yêu thích, ca ngợi như “Truyện Kiều”. Bất cứ là người Việt Nam dù thuộc tầng lớp, lứa tuổi nào cũng đều biết đến “Truyện Kiều”; có người thuộc năm bảy câu, có người thuộc cả đoạn, thậm chí là đọc ngược được “Truyện Kiều”.
Một trong những yếu tố quan trọng để “Truyện Kiều” có được sự tiếp nhận rộng rãi và nghiền ngẫm say sưa của nhân dân như vậy là nhờ vào biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Bên cạnh việc sử dụng các điển cố, điển tích,… thi hào đã vận dụng một cách rất tài tình, linh hoạt vốn ngôn ngữ dân gian như: từ thuần Việt, thành ngữ, tục ngữ,… Chính nhờ đặc điểm này mà “Truyện Kiều” đã trở nên gần gũi, gắn bó với quần chúng lao động, từ đó ai ai cũng đều có thể hiểu khi đọc “Truyện Kiều”.
Do vậy việc nghiên cứu và phân tích “Truyện Kiều” ở góc độ ngôn ngữ là rất cần thiết. Bên cạnh những vấn đề đã được đi sâu vào nghiên cứu như từ Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ,… thì hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ “Truyện Kiều” cũng giữ một vai trò nhất định trong việc tạo nên sự phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa của ngôn ngữ, góp phần làm nên sức sống lâu bền của “Truyện Kiều”. Xuất phát từ những lí do trên bản thân tui chọn: “Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm Truyện Kiều” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm để giúp học sinh phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Việc nghiên cứu, khảo sát hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều” giúp học sinh tìm ra số lượng, đặc điểm và tính chất của hiện tượng đa nghĩa. Đồng thời sẽ phân tích, đánh giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”.
Đề tài sẽ là cơ sở cho các công trình nghiên cứu khác nhau có liên quan đến hiện tượng đa nghĩa. Từ đó giúp học sinh xác định và sử dụng ngôn ngữ đúng bối cảnh và đúng mục đích diễn đạt.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Học sinh khối 9 trường THCS Nguyễn Trãi trong các năm học 2013-2014; 2014-2015 và đặc biệt là học sinh lớp 9A5, 9A7 năm học 2015-2016.
Vấn đề chỉ tập trung vào hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ Việt nói chung và ngôn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng. Để giải quyết vấn đề này tui dựa vào văn bản “Truyện Kiều” do Đào Duy Anh dịch của nhà xuất bản Phụ nữ, 2007.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ mục đích, yêu cầu và đối tượng nghiên cứu của đề tài, tui đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận văn bản: Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến từ đa nghĩa và hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.
- Phương pháp thống kê và phân loại: Thống kê các câu thơ trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều” có chứa hiện tượng đa nghĩa và phân loại chúng theo tiêu chí từ loại.
- Phương pháp phân tích: Từ tư liệu đã thống kê và phân loại tui tiến hành phân tích để rút ra những đặc điểm của nhóm từ đa nghĩa theo tiêu chí đã phân loại.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi thống kê, phân loại và phân tích rút ra được những nhận xét khoa học, xác đáng về hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều”.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận:
Trong thực tế đời sống văn học nước ta những năm gần đây, việc hiểu và đánh giá tác phẩm nghệ thuật đã và đang trở thành một hiện tượng thời sự. Trên bình diện lý thuyết, người ta đã bắt đầu nói nhiều đến vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương. Mặc dù vẫn còn có những ý kiến chưa đồng tình, nhưng nhìn chung giới nghiên cứu và phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng đa nghĩa như là một đặc tính hữu cơ của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du đến nay không phải là vấn đề còn quá mới mẻ đối với những nhà nghiên cứu. Ngay từ khi “Truyện Kiều” mới được công bố nó đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của giới trí thức. Đào Duy Anh có cuốn “Khảo luận Kim Vân Kiều”. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về nghệ thuật “Truyện Kiều” tương đối toàn diện, đặt nền móng cho các thế hệ sau này tiến hành nghiên cứu “Truyện Kiều” dưới nhiều góc độ khác nhau.
Với “Thư mục nghiên cứu Truyện Kiều” của Trần Đình Sử trong cuốn “Thi pháp Truyện Kiều” năm 2002, cho thấy có 661 công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” trong đó có hơn 70 công trình nghiên cứu phương diện ngôn ngữ.
Qua các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã làm rõ được nhiều vấn đề mang tính chiều sâu và khái quát có liên quan đến Truyện Kiều. Song, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu diễn ra trên phương diện văn bản học, chứ chưa có công trình nào chú ý tới hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều” như một đối tượng riêng.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ là một hình thức nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Từ việc nghiên cứu các vấn đề này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khái quát, đầy đủ và sâu sắc hơn về hiện tượng đa nghĩa. Nắm chắc được các vấn đề lý thuyết cơ bản về hiện tượng đa nghĩa cũng có nghĩa là chúng ta tiếp nhận được yếu tố dẫn đường, làm cơ sở nghiên cứu hiện tượng đa nghĩa trên các tác phẩm văn học cụ thể.
Từ đó, tui đưa ra các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều” rồi yêu cầu các em tìm ra đặc điểm và tính chất của hiện tượng đa nghĩa. Qua đó, tui đã phát hiện được nguyên nhân dẫn đến các lỗi mà các em còn mắc phải. Để mang lại hiệu quả cao cho quá trình lĩnh hội tri thức, tui mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy để giúp các em học sinh khối 9 nắm được vai trò của hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều”. Đồng thời, khi nghiên cứu hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều” sẽ phát hiện ra nhiều vấn đề mới mẻ và thấy được nghệ thuật dùng từ điêu luyện, chuẩn xác của thi hào Nguyễn Du.
II.2. Thực trạng:
Trong những năm vừa qua, tui luôn được lãnh đạo nhà trường tin tưởng và trực tiếp phân công giảng dạy các khối lớp và bồi dưỡng học sinh giỏi khối 7. Đặc biệt trong năm học 2015-2016, tui được nhà trường giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7. Với kinh nghiệm tích lũy được, tui nhận thấy nhiều học sinh chưa có khả năng phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm nên mạnh dạn chỉ ra một số biện pháp, sáng kiến giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức cơ bản trên.
a. Những thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Trong những năm vừa qua, bản thân luôn nhận được sự quan tâm sâu sát của Ban Giám Hiệu, của Công đoàn giáo dục cùng sự giúp đỡ của tất cả các đoàn thể trong Hội đồng sư phạm nhà trường, đặc biệt là các đồng nghiệp trong tổ Ngữ Văn trường THCS Nguyễn Trãi.
- Trong năm học này, tui đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn 7, tui thấy đa số học sinh có khả năng tiếp thu bài đồng đều, khả năng lĩnh hội tri thức tương đương nhau, số học sinh chiếm tỉ lệ khá ở các môn học khá cao. Đại đa số các em có tinh thần học tập, ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên lớp.
- Công tác giảng dạy của giáo viên rất thuận lợi vì có tài liệu tham khảo nhiều. Ngoài ra còn có các lớp học nâng cao trình độ nghiệp vụ tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập để theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay. Tất cả đều nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình truyền tải kiến thức của tôi.
* Khó khăn:
- Về phía giáo viên: Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình giảng dạy chưa đưa ra các biện pháp tối ưu để giúp học sinh phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ. Và cũng do sĩ số lớp còn đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy.
Thực tế mỗi trường đều có những phương pháp dạy học riêng để nâng cao chất lượng dạy học. Nhưng vấn đề lớn nhất ở đây chính là phương pháp tiếp cận của giáo viên với học sinh còn rất hạn chế, còn cứng nhắc dẫn đến sự buồn chán trong việc dạy và học tại các nhà trường.
- Về phía học sinh: Số lượng học sinh dân tộc thiểu số tương đối đông dẫn đến tình trạng bỏ học, lười học bài vẫn còn thường xuyên xảy ra. Một số gia đình điều kiện kinh tế còn hạn hẹp, nhận thức còn hạn chế. Do vậy, các em chưa có điều kiện mua thêm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn Ngữ văn được tốt hơn.
Bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh chây lười trong quá trình tiếp thu bài học, chưa thực sự có hứng thú với môn học nên không chuẩn bị tốt cho giờ học môn Ngữ văn dẫn đến tình trạng nắm bắt không đầy đủ lượng kiến thức mà giáo viên truyền tải.
Hầu như tất cả các em chưa có thói quen tìm hiểu, phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm trong các tác phẩm văn chương và còn xem nhẹ các môn xã hội trong đó có môn Ngữ Văn dẫn đến chất lượng học tập không cao.
b. Thành công và hạn chế khi vận dụng đề tài:
- Khi vận dụng đề tài này vào thực tế, đã giúp học sinh phần nào phân tích, đánh giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng đa nghĩa. Từ đó có cơ sở để phân biệt hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ.
- Thông qua đề tài giúp học sinh vận dụng được hiện tượng đa nghĩa của từ vào trong bài viết tránh tình trạng dùng lẫn lộn, không xác định được hoàn cảnh sử dụng từ nhiều nghĩa và từ đồng âm trong giao tiếp cũng như trong học tập.
- Giúp học sinh thấy được hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ Việt nói chung và ngôn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng cũng giữ một vai trò nhất định trong việc tạo nên sự phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Từ đó có thái độ hăng say với môn học và thêm yêu văn học dân tộc.
Bên cạnh những thành công đã đạt được đề tài còn mắc phải một số hạn chế như: Ngoài các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều” ở lớp 9, giáo viên chưa cung cấp thêm được nhiều các từ, các câu thơ khác có chứa hiện tượng đa nghĩa cũng như trong các văn bản khác cho học sinh tiếp cận nên chưa mở rộng được vốn kiến thức cho học sinh.
Do ý thức học tập của một số học sinh chưa tốt, khả năng tiếp thu chậm nên vẫn chưa nắm vững hiện tượng đa nghĩa dẫn đến chưa phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ.
c. Mặt mạnh, mặt yếu khi vận dụng đề tài:
- Với những kinh nghiệm mà bản thân đúc rút ra từ thực tiễn giảng dạy có những mặt mạnh sau đây:
+ Học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao, công tác giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn nhưng khi vận dụng đề tài vào thực tế đã giúp học sinh tích cực, chủ động trong việc xây dựng nâng cao chất lượng học tập.
+ Học sinh hiểu bài và phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của ngôn ngữ nên phần nào giúp học sinh yêu thích bộ môn hơn.
- Bên cạnh đó đề tài vẫn còn một số hạn chế như: Một số em không chịu đọc bài, soạn bài, không nắm vững khái niệm, không tìm hiểu thêm kiến thức nên dẫn đến còn chây lười, khó tiếp thu kiến thức mới. Từ đó, dẫn đến tình trạng một số học sinh còn chưa phân định rõ ràng đâu là hiện tượng đa nghĩa và đâu là hiện tượng đồng âm.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Có rất nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến sự thành công cũng như hạn chế trong quá trình vận dụng đề tài vào thực tiễn của người giảng dạy. Cụ thể là:
Bản thân luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn cũng như các đồng nghiệp trong việc phối hợp để giáo dục và hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy của mình.
Quá nhấn mạnh việc gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống nên giáo viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ. Vốn kiến thức của giáo viên thiếu sự mở rộng. Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh nên giờ dạy còn tẻ nhạt chưa thu hút được sự chú ý của học sinh.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc đưa ra những cách thức phân biệt hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm nên học sinh không khắc sâu được kiến thức. Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến quá trình học tập của con em, chưa đôn đốc các em việc học bài cũ trước khi đến lớp.
- Do học sinh chưa nắm vững khái niệm về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm dẫn đến tình trạng không phân biệt được từ nhiều nghĩa và từ đồng âm nên hiểu sai bản chất, dùng sai từ khi giao tiếp cũng như khi tạo lập văn bản.
- Một số em học sinh không học bài, làm bài cũ nên dẫn đến tình trạng học trước quên sau và khi có những bài tập cụ thể xác định về từ nhiều nghĩa sẽ không biết cách giải quyết. Đa số các em chưa trang bị thêm cho mình những tài liệu tham khảo về “Truyện Kiều” để làm tài liệu học tập.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Sử dụng phân biệt hiện tượng đồng âm và hiện tương đa nghĩa trong tiết dạy có vai trò quan trọng giúp học sinh nắm vững, khắc sâu và hình thành kiến thức sâu sắc hơn tuy nhiên với những khó khăn mà giáo viên đang gặp phải là những khó khăn cần và có thể giải quyết được giúp ý tưởng có thể đi vào thực tiễn giảng dạy như:
- Trước hết, với việc đa dạng học sinh trong lớp dẫn đến sự khó khăn khi truyền tải kiến thức cho nên giáo viên cần có những câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức,… so với những học sinh khác. Có lẽ đây là vấn đề không chỉ của riêng ngành giáo dục mà hiện nay cả xã hội cũng đang quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp giảm dần khoảng cách về trình độ trong lớp học. Vấn đề nêu trên là khó khăn với không ít giáo viên nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
- Thứ hai, học sinh chưa nắm rõ các khái niệm, cấu trúc về hiện tượng đa nghĩa, hiện tượng đồng âm nên chưa xác định đúng khi gặp trong văn bản. Ngoài ra, hiện tượng đa nghĩa trong ba đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều” (trong chương trình ngữ văn 9) còn ít nên giáo viên phải tìm tòi, củng cố, khắc sâu và nâng cao thêm kiến thức cho học sinh. Điều đó đòi hỏi người giáo viên cần đầu tư thời gian, công sức, tài liệu tham khảo nhiều hơn cho các bài giảng của bản thân.
- Thứ ba, với việc học sinh không học bài, làm bài trước khi đến lớp và không khắc sâu được kiến thức đã học, đồng thời không đầu tư vào bài học còn khá phổ biến. Chính việc học sinh không đầu tư vào bài soạn nên không khắc sâu được kiến thức, thường nhầm lẫn giữa hai hiện tượng trên. Tuy nhiên, với đề tài này tui muốn đề cập ở đây chính là một phương pháp học hiệu quả, với cách phân biệt hai hiện tượng này bắt buộc học sinh phải có sự hiểu sâu về vấn đề được học đồng thời biết vận dụng nó một cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học phải biết ghi nhớ các điểm chính, các từ chủ điểm rồi từ đó suy ra những vấn đề nhỏ hơn và hiểu rằng mình đang học cái gì. Cách ghi nhớ này giúp cho những thông tin cần thiết được lưu lại trong não một cách hệ thống và được sử dụng có hiệu quả trong những ngữ cảnh phù hợp. Vì vậy, thông qua SKKN này tui muốn giúp học sinh khắc sâu, phân biệt hiện tượng đồng âm với hiện tượng đa nghĩa này trong việc tạo lập văn bản cũng như trên thực tế đời sống.
- Thứ tư, đối với phần lớn học sinh thì việc học môn Ngữ Văn là một điều gì đó các em bị bắt buộc phải làm chứ các em không hề muốn. Học Ngữ Văn lúc này đối với học sinh là một nghĩa vụ, và chính điều đó khiến cho các em cảm giác không thoải mái khi học. Đây chính là thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất mà một người dạy lẫn người học môn Ngữ Văn phải đối mặt, bởi vì khi một người không thích học Ngữ Văn thì chắc chắn sẽ không thể học nó tốt được. Chính vì vậy trách nhiệm của người giáo viên dạy là phải tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp nhằm khơi gợi niềm đam mê của học sinh, để các em nhận ra rằng: Nếu muốn trở thành một người công dân tốt, có cảm xúc và biết yêu thương, thì cần quan tâm đến bản thân chính quá trình học môn Ngữ Văn của mình.
- Thứ năm, với cuộc sống ngày càng hiện đại hiện nay, trò chơi càng nhiều làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập của học sinh. Cho nên, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sự lôi cuốn học sinh trong từng tiết dạy. Từ đó, giáo viên cần luôn tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng thú đối với học sinh. Với sáng kiến kinh nghiệm này, chúng ta có thể xây dựng những bài tập nhanh với hình ảnh hấp dẫn để thu hút học sinh phân biệt giữa hai hiện tượng vừa chơi vừa học nhưng hiệu quả thu lại rất cao.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Thông qua sáng kiến này, bản thân cố gắng giúp học sinh phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của ngôn ngữ: nắm vững cấu tạo, phân loại đặc điểm của từng loại để tránh tình trạng dùng sai, dùng không đúng văn cảnh. Từ đó giúp học sinh vận dụng nhuần nhuyễn, thích hợp từ nhiều nghĩa trong bài viết cũng như trong giao tiếp hàng ngày.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b.1. Hiện tượng đa nghĩa
 Khái niệm từ đa nghĩa:
Từ đa nghĩa (từ nhiều nghĩa) là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm,
thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hay biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.
Hay: Một từ với một hình thức ngữ âm nhưng có thể gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm khác nhau trong thực tế khách quan thì được gọi là từ đa nghĩa.
Ví dụ: Từ đi trong tiếng Việt là một từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa chỉ dịch chuyển bằng hai chi dưới (tui đi rất nhanh nhưng vẫn không đuổi kịp anh ấy) vừa có nghĩa chỉ một người nào đó đã chết (Anh ấy ra đi mà không kịp nói lời trăng trối.)
 Cần phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm:
Có thể hiểu từ đa nghĩa là một từ nhưng có nhiều nét nghĩa và các nét nghĩa đó có mối liên hệ với nhau, còn từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về nghĩa và các nét nghĩa đó không có bất kì một mối liên hệ nào.

c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Để giải quyết được những thực trạng trên cần sự cố gắng, trau dồi kiến thức và sự tận tụy với nghề của từng giáo viên để tìm ra những phương pháp tối ưu giúp học sinh không còn nhầm lần giữa từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
- Cần sự quan tâm hơn nữa của nhà trường, các bậc phụ huynh học sinh trong việc động viên các em học bài và đi học chuyên cần.
- Ngoài ra cũng cần có sự cố gắng nỗ lực không nhỏ từ phía học sinh, cần đầu tư nghiêm túc hơn cho mục tiêu giáo dục. Yêu cầu học sinh cần học bài, nắm vững các khái niệm, phân loại, đặc điểm của từ nhiều nghĩa với từ đồng âm để làm cơ sở phân biệt hai loại này.
- Yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm hiểu thêm những câu thơ có chứa từ nhiều nghĩa và từ đồng âm được sử dụng trong các tác phẩm văn học, trong đời sống, trong giao tiếp ở trong từng hoàn cảnh cụ thể.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Cần thống nhất trong cách thực thực hiện các biện pháp trên cơ sở của những biện pháp đã đề ra. Cần phối hợp nhịp nhàng giữa giáo viên với tổ chuyên môn, nhà trường và cha mẹ học sinh.
Trên cơ sở mỗi giải pháp cần đưa ra những biện pháp cụ thể như:
+ Giáo viên cần tìm ra cách thức gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học: Trò chơi tìm câu thơ có chứa từ nhiều nghĩa và từ đồng âm trong tác phẩm Truyện Kiều mà thông qua đó học sinh có thể nhận diện được đó là từ nhiều nghĩa hay từ đồng âm…
+ Cần có những hình thức răn đe, giáo dục song cũng cần có phương pháp khuyến khích khi học sinh không học bài và làm bài khi đến lớp.
+ Trong các phần luyện tập cần có những bài tập nhanh, bài tập phù hợp với đối tượng học sinh yếu, kém nhằm khuyến khích khả năng học tập của các em.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Với việc áp dụng đề tài “Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm Truyện Kiều” qua quá trình giảng dạy tui nhận thấy có rất nhiều thuận lợi khi giảng dạy. Kết quả cụ thể như sau:
+ Học sinh đã dần dần biết phân biệt từ nhiều nghĩa và từ đồng âm, đã nắm vững đặc điểm cũng như cấu tạo của từ nhiều nghĩa trong các tác phẩm văn chương.
+ Kết quả các kỳ thi xét tốt nghiệp ở khối lớp 9 môn Ngữ Văn của các em trường THCS Nguyễn Trãi trong ba năm gần đây đều đạt 70% bài làm từ điểm 5 trở lên. Đây là một kết quả khá cao so với các lớp còn lại trong khối.
+ Năm học 2013-2014 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải khuyến khích môn Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 2014-2015 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải nhì và một giải ba môn Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 2015-2016 trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải ba và một công nhận môn Ngữ văn khối 7 cấp huyện.
Đây cũng là kết quả đã đạt được trong ba năm gần nhất mà tui đảm nhiệm công tác giảng dạy môn Ngữ văn khối 7 trường THCS Nguyễn Trãi.
Trong năm học 2015-2016 khi nghiên cứu đề tài này qua khảo sát tui thu được kết quả như sau:
Trước khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối lớp 9 trường THCS Nguyễn Trãi tui thấy kết quả còn hạn chế. Cụ thể như sau:

STT Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém

SL % SL % SL % SL % SL %
1 9A5 34 2 6 % 27 79 % 5 15 % 0 0 0 0
2 9A7 34 0 0 3 9 % 21 62 % 10 29 % 0 0
TC 68 2 3 % 30 44,1 % 26 38,2% 10 14,7 % 0 0

Sau khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối 9 trường THCS Nguyễn Trãi, chúng tui thực hiện khảo sát, thống kê được kết quả như sau:

STT Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém

SL % SL % SL % SL % SL %
1 9A5 34 6 17,7 % 26 76,5 % 2 5 ,8 % 0 0 0 0
2 9A7 34 1 3 % 5 14,7 % 25 73,5 % 3 8,8 % 0 0
TC 68 7 10,3 % 31 45,6 % 27 39,7 % 3 4,4 % 0 0

II.4. Kết quả
Qua kết quả khảo nghiệm tui thấy về kiến thức đại đa số học sinh đã nắm được khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như ý nghĩa từ nhiều nghĩa. Từ đó, các em có thể phân biệt, vận dụng từ nhiều nghĩa vào trong đời sống hàng ngày cũng như trong quá trình học tập. Một số bài làm đạt điểm trung bình hay yếu là rơi vào các em học sinh đồng bào Ê-đê vì năng lực tư duy ngôn ngữ của các em có phần hạn chế.
Về thái độ đa số các em đã có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt từ đó dùng từ nhiều nghĩa đúng với từng hoàn cảnh giao tiếp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận:
Chúng ta có thể khẳng định “Truyện Kiều” là kiệt tác của mọi thời đại. Tác phẩm có sức sống và sức hấp dẫn kì diệu đối với nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nội dung mang tính hiện thực sâu sắc và tinh thần nhân đạo cao cả được thể hiện bằng một hình thức và nghệ thuật tuyệt mĩ. Về ngôn ngữ thơ, đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ hết sức tinh luyện, biến hóa, sáng tạo và đã nâng nền ngôn ngữ văn học dân tộc đến đỉnh cao chói lọi. Lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân giàu có, trong sáng; vốn từ Hán Việt dồi dào, trang trọng, hàm súc được đưa vào Truyện Kiều tự nhiên, sống động, chuẩn xác, mẫu mực. Nếu như lâu đài thơ “Truyện Kiều” đã
được xây dựng bằng các yếu tố ngôn ngữ, các lớp ngôn từ thì từ đa nghĩa chính là những viên gạch lót nền để dựng nên lâu đài ấy.
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm mới chỉ là những khám phá bước đầu về việc dùng từ đa nghĩa của Nguyễn Du. Qua đó, cho thấy đại thi hào Nguyễn Du chính là người đã góp phần không nhỏ trong việc khai thác, sử dụng thuần thục kho từ vựng tiếng Việt và cũng như đưa ngôn ngữ dân tộc lên đỉnh cao mới. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, sự kết hợp hài hòa của ngôn ngữ, tất cả mọi yếu tố đó đã làm nên một Nguyễn Du và “Truyện Kiều” bất hủ.
Trên đây là một số giải pháp mà tui thấy nên làm để phân biệt hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm cho học sinh khối 9 nói riêng và học sinh bậc THCS năm học 2015-2016 nói chung và tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
Với kết quả khảo sát trên cùng với sự hứng thú của học sinh trong các tiết học tui cho rằng đề tài có khả năng thực thi khi áp dụng vào thực tế dạy học các đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều” ở lớp 9. Cũng qua đề tài này, bản thân mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu ngôn ngữ “Truyện Kiều”, để thấy được đặc điểm của hiện tượng đa nghĩa nói chung và trong “Truyện Kiều” nói riêng. Từ đó, chúng ta có thêm một cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về ngôn ngữ “Truyện Kiều”. Vì vậy tui mạnh dạn đề xuất đề tài này với hi vọng sẽ đóng góp tích cực cho việc nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 9.
Khi thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy bản thân rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung chân tình của các cấp lãnh đạo cùng các bạn bè đồng nghiệp để những năm sau đạt được kết quả dạy và học tốt hơn.
III.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn khối lớp 9 theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Với kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy trong quá trình giảng dạy trên đây, trong phạm vi đề tài này tui cũng mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ về việc giúp các em phân biệt được hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm trong chương trình Ngữ Văn THCS như sau:
* Về phía nhà trường: Nhà trường có thể mua thêm các tài liệu tham khảo, quyển “Truyện Kiều”, “Phong cách Truyện Kiều” của Nguyễn Du để giáo viên và học sinh tham khảo.
* Về phiá giáo viên: Biết lắng nghe thông tin và ý kiến đánh giá từ phía học sinh, có kỹ năng sư phạm để có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy vào bài học cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó giáo viên cần tìm tòi, mở rộng vốn kiến thức của bản thân, cung cấp thêm cho học sinh kiến thức mới để phục vụ cho việc tiếp thu kiến thức.
* Về phía học sinh: Cần học bài và làm bài trước khi đến lớp, tích cực xây dựng bài và tiếp thu tri thức mới để tiết học đạt được hiệu quả cao nhất.

Eana, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Người thực hiện



Nguyễn Thị Lanh
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu.............................................................................................. Trang 1
I.1. Lý do chọn đề tài. .................................................................................... Trang 1
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.................................................................. Trang 1
I.3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... Trang 1
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu................................................................... Trang 1
I.5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... Trang 1
II. Phần nội dung ......................................................................................... Trang 2
II.1. Cơ sở lý luận........................................................................................... Trang 2
II.2.Thực trạng................................................................................................ Trang 3
a. Thuận lợi- khó khăn.................................................................................... Trang 3
b. Thành công- hạn chế.................................................................................. Trang 3
c. Mặt mạnh- mặt yếu..................................................................................... Trang 4
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…................................................... Trang 4
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra............... Trang 5
II.3. Giải pháp, biện pháp............................................................................... Trang 6
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.............................................................. Trang 6
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp............................... Trang 6
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp................................................... Trang 23
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp................................................ Trang 23
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu ................. Trang 23
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề........... Trang 24
III. Phần kết luận, kiến nghị........................................................................ Trang 24
III.1. Kết luận...…………………………………………….…..................... Trang 24
III.2.Kiến nghị: ………………………………………………………......…
Mục lục ......................................................................................................
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………… Trang 25
Trang 26
Trang 27




Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top