hoangtrung15184

New Member
GIÁO TRÌNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(DÀNH CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN NGÀNH
MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH)
TP. Hồ Chí Minh, năm 20192
Chương 1
KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, VÀ Ý
NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
MỤC TIÊU:
- Về kiến thức
Góp phần trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về một số vấn đề chung
(nhập môn) của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về kỹ năng
Qua nghiên cứu môn học này, sinh viên bước đầu có được tư duy về kỹ năng đúng
đắn, phù hợp khi phân tích cả về mặt lý luận và thực tiễn các vấn đề đặt ra trong cuộc
sống.
- Về tư tưởng
Giúp cho sinh viên thấy rõ hơn vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của
dân tộc Việt Nam, thêm tin tưởng vào chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần tiếp thêm sức lạnh cho sinh viên
về ý chí và hành động phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng.
I. KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011)
nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhận loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1.
Khái niệm trên đây chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở hình
thành cũng như ý nghĩa của tư tưởng đó.
Cụ thể:
Một là, khái niệm này đã nêu rõ bản chất khoa học và cách mạng cũng như nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.883
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề có tính
quy luật của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt
được mục tiêu đó, con đường này đúng theo lý luận Mác-Lênin; khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước cách mạng; xác định lực
lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước, xây dựng con người Việt
Nam có khả năng và phẩm chất đạo đức cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển;
với phương pháp cách mạng phù hợp2.
Hai là, nêu lên cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin –
giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng đó; đồng thời tư
tưởng Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tiếp thu các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, khái niệm đó đã nêu lên ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Khái niệm trên đây là sự ghi nhận quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau đây là khái quát quá trình nhận thức đó:
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua các văn kiện làm thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh này thể hiện những nội dung rất cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Sau khi Đảng ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua thử thách khẳng định lại.
Việc nhận thức về quan điểm của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam cũng như
vai trò của Người đối với quá trình phát triển của dân tộc từ sau khi thành lập Đảng là
một quá trình không đơn giản. Đã có sự hiểu sai từ Quốc tế Cộng sản và từ cả một số
người trong Đảng Cộng sản Đông Dương do họ bị chịu ảnh hưởng rất mạnh từ đường
lối, quan điểm tả khuynh của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928) trên vấn đề tập
2 Sau những nội dung nhập môn (Chương I) và sau khi nêu lên cơ sở hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh (Chương
II), giáo trình này chỉ đề cập đến mốt số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong khuôn khổ thời lượng đào tạo bậc
đại học (từ Chương III đến Chương VI)4
hợp lực lượng cách mạng ở những nước thuộc địa. Nhưng, thực tế đã chứng minh cho
sự đúng đắn của những quan điểm của Hồ Chí Minh và những người tham gia Hội nghị
thành lập Đảng, vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh đã dần dần được khẳng định lại. Đại hội
II của Đảng (2-1951) nêu rõ: "Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách
mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch…Toàn Đảng
hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ
tịch; sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng
đi mau đến thắng lợi hoàn toàn"3.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng dân tộc vĩ
đại”. Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng có đoạn nêu rõ: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ
tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân
ta và non sông đất nước ta”4. Tiếp nối sự đánh giá ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (12-1976) đánh giá: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước
cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi
gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta,
người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết
dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công
nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế”5. Tiếp theo, tháng 3-1982, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V của Đảng nhấn mạnh: "Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập
một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn
Đảng”6.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã nêu ra đường lối đổi
mới toàn diện ở nước ta, trong đó nhấn mạnh: “Đảng ta phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý
luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”7.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) là mốc lớn khi nêu
cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến thời điểm diễn ra Đại hội VII của Đảng, Hồ Chí Minh
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 9.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.15, 2011, tr. 627.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.474
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, tập 3, tr.61.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.807.5
đã qua đời 22 năm và sự nghiệp đổi mới của đất nước đã diễn ra được 5 năm. Thực tế
sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và của những năm đổi mới nói riêng đã chứng
tỏ rằng, không những chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là tư tưởng Hồ Chí Minh nữa, đã
trở thành yếu tố chỉ đạo làm nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, một
trong những điểm mới của Đại hội VII là Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội
VII của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”8. Đại hội VII nêu rõ: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần
quý báu của Đảng và của cả dân tộc”9. Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cũng đã được
ghi nhận trong hai văn kiện rất quan trọng của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội được Đại hội VII năm 1991 thông qua (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và năm 2013.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng nhận thức về tư
tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn so với Đại hội VII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”10.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), khi đề cập tư tưởng Hồ
Chí Minh, đã nêu rõ: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua
đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin mãi mãi là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản
tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trễn mỗi chặng
đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
là sức mạnh tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta
hôm nay và mai sau”11.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.6-7.6
Các Đại hội đại biểu toàn quốc tiếp nối về sau của Đảng cũng luôn khẳng định
công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và khẳng định tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những nhẫn tố không thể thiếu trong tư tưởng và
hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh
rằng, phải “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo
và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”12.
Ở bình diện quốc tế, nhiều đảng chính trị, nhiều quốc gia, nhiều tổ chức, cá nhân
đánh giá rất cao phẩm chất và vai trò của Hồ Chí Minh đối với quá trình phát triển của
dân tộc Việt Nam cũng như đối với quá trình phát triển văn minh tiến bộ của nhân loại.
Một trong số tổ chức quốc tế đó là Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO), tại Khóa họp Đại Hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Pari, từ ngày
20-10-1987 đến ngày 20-11-1987, đã ra Nghị quyết số 24C/18.6.5 về kỷ niệm 100 năm
Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đó có “Nhắc lại Quyết định số 18C/4.351
thông qua tại Khóa 18 Đại Hội đồng UNESCO về việc tổ chức kỷ niệm ngày sinh của
các danh nhân và việc kỷ niệm các sự kiện lịch sử đã để lại dấu ấn trong quá trình phát
triển của nhân loại” và ghi nhận “việc tổ chức kỷ niệm ngày sinh các nhân vật trí thức
lỗi lạc và các danh nhân văn hóa trên phạm vi quốc tế góp phần thực hiện các mục tiêu
của UNESCO và đóng góp vào sự hiểu biết trên thế giới”, trên cơ sở đó “Ghi nhận năm
1990 sẽ đánh dấu 100 năm Kỷ niệm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng
giải phóng dân tộc và nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”13.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là một nội dung của chuyên ngành Hồ Chí Minh
học (nằm trong ngành Khoa học chính trị). Đối tượng nghiên cứu, học tập của môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn bộ những quan điểm của Hồ Chí Minh thể hiện trong di
sản của Người. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về sự phát triển của dân
tộc Việt Nam. Hệ thống quan điểm đó của Hồ Chí Minh phản ánh trong những bài nói,
bài viết của Người, trong hoạt động cách mạng và trong cuộc sống hằng ngày của Người.
Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn được rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú ở
cả trong nước và trên thế giới của Hồ Chí Minh phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.199.
13 Xem GS,TS Mạch Quang Thắng, PGS,TS Bùi Đình Phong, TS Chu Đức Tính (Đồng Chủ biên): “UNESCO với sự kiện tôn
vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013,
tr.71-72.7
không những ở tầm dân tộc Việt Nam mà còn ở tầm thế giới: Giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Đối tượng nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là quá trình hệ thống
quan điểm của Hồ Chí Minh vận động thực tiễn. Hay nói cách khác, đó là quá trình
“hiện thực hóa” hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong quá trình phát triển của dân
tộc Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin có một quá trình được các đảng cộng sản vận dụng
vào điều kiện cụ thể của các dân tộc mình và của thời đại. Quá trình này chính là sự thể
hiện chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn được bổ sung, làm phong phú thêm từ cuộc sống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thế. Trong quá trình hiện thực hóa hệ thống quan điểm
của Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam luôn luôn là sự vận dụng sáng tạo và phát triển
hệ thống quan điểm đó trong những điều kiện mới.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp luận của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp luận Hồ Chí Minh lấy phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin làm cơ sở, được hình thành và phát
triển qua quá trình hoạt động cách mạng của Người. Phương pháp luận đó chỉ đạo các
phương pháp suy nghĩ và hành động trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Hồ Chí
Minh sống và hoạt động cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp và cuối cùng đi đến giải phóng con người. Dưới đây là một số nguyên
tắc phương pháp luận trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tính thống nhất và tính khoa học
Nội dung chủ yếu của phương pháp luận này là: phải đứng trên lập trường giai cấp
công nhân, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quán triệt cương lĩnh, đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để nhận thức và phân tích những quan
điểm của Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải bảo đảm tính khách quan, khoa học của các
luận đề nêu ra. Sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học là một nguyên
tắc rất cơ bản trong phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên cơ
sở thống nhất nguyên tắc tính đảng và tính khoa học, người nghiên cứu, học tập mới
hiểu rõ và hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc phát hiện vai trò và sức mạnh to lớn
của nhân dân không phải là công lao đầu tiên của những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học, và ở Việt Nam cũng không phải là sự phát hiện đầu tiên của Hồ Chí Minh.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học và Hồ Chí Minh thấy rõ hơn vai trò và sức8
mạnh nhân dân, coi đó là động lực của sự phát triển để hướng tới xây dựng một xã hội
mới tốt đẹp, giải phóng cho con người theo chủ nghĩa nhân văn mácxít. Đó là mục tiêu
cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản. Ở “xã hội cộng sản”, như Hồ Chí Minh đã ghi thành
mục tiêu của cách mạng Việt Nam khi xác lập cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, thì con người được giải phóng khỏi mọi ách áp bức,
bóc lột, con người làm chủ xã hội, ở đó con người sống trong tự do thật sự. Cho nên vấn
đề có tính phương pháp luận Hồ Chí Minh là ở chỗ, mọi suy nghĩ và hành động, mọi
lúc, mọi nơi, người cách mạng đều phải hướng tới mục tiêu giải phóng con người. Mọi
công cuộc giải phóng trước đó đều chỉ là mục tiêu của từng chặng đường. Chỉ có con
người được giải phóng toàn diện thì mới thực sự là mục tiêu cuối cùng và cao cả nhất.
Chính vì thế, thước đo duy nhất để nhận rõ hiệu quả tư duy và hành động của người
cách mạng, của tổ chức cách mạng Việt Nam là ở chỗ tư duy và hành động đó có đưa
lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân hay không.
b. Tính thống nhất lý luận và thực tiễn
Cần vận dụng cơ sở phương pháp luận của Hồ Chí Minh về mặt này. Hồ Chí Minh
vừa coi trọng lý luận vừa coi và thực tiễn thống nhất chặt chẽ với nhau. Về lý luận,
Người cho rằng: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các
cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem
nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó
chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi”14. Hồ Chí Minh phê bình sự chủ quan, kém lý luận, “mắc phải cái
bệnh khinh lý luận”15, có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng,
một mắt mờ”16, “vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không xem xét cho rõ, cân nhắc
cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình
nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”17.
Hồ Chí Minh chỉ rõ con người sẽ mắc phải căn bệnh “lý sự suông”18 nếu không áp
dụng vào thực tế, “dù xem được hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực
hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây,
thế không phải là biết lý luận…Phải ra sức thực hành mới thành người biết lý luận…Phải
14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr.273-274.
15 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr.274.
16 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr. 274.
17 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr. 274.
18 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr. 275.9
đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế…Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành
phải nằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hay viên đạn). Thực hành cũng như
cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hay bắn lung tung cũng như không có tên”19.
Ở Hồ Chí Minh, chúng ta thấy không có sự tuyệt đối hóa mặt nào giữa chúng.
Thậm chí, nhìn xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh thì trong lý luận của Người đã có thực
tiễn, trong thực tiễn của người đã có lý luận; chỉ khi muốn nghiên cứu thật sâu với tư
cách là một yếu tố chuyên biệt thì chúng ta mới có thể tách riêng ra, nhưng việc tách ra
cũng chỉ là tạm thời trong một động thái nào đó của thao tác nghiên cứu mà thôi, còn về
bản chất của nội dung phương pháp luận này là sự thống nhất biên chứng.
c. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử
vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong vấn đề phương pháp luận
này, cần vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về mối liên hệ biện chứng khi xem xét sự
vật và hiện tượng trong mối liên hệ lịch sử căn bản, xem sự vật, hiện tượng đó đã xuất
hiện trong lịch sử như thế nào, trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào; đứng
trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào.
Nếu nắm vững quan điểm này, người nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ nhận
thức được bản chất tư tưởng đó mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá
trình phát triển sáng tạo, đổi mới.
d. Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách
mạng Việt Nam, có quan hệ thống nhất biện chứng nội tại của nó. Một yêu cầu về lý
luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là
phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong
sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó xung quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc
lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống
sẽ hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh nhìn sự vật và hiện tượng trong một tổng thể vận động với những cái
chung và cả những cái riêng, trong sự vận động cụ thể của điều kiện hoàn cảnh nhất
định nào đó và xem xét chúng trong xu thế chung. Vì coi tính bao quát là một nguyên
tắc tư duy và hành động, như là một phương pháp luận, cho nên Hồ Chí Minh xem xét
19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t5, tr. 274-275.10
cách mạng Việt Nam trong quan hệ tổng thể với cách mạng thế giới. Trong khi nhìn bao
quát, phương pháp luận này còn chỉ rõ điểm nhấn, bộ phận nào có tính trọng điểm để
hướng hành động một cách tập trung ưu tiên vào đó. Trọng điểm này có khi không phải
là trọng điểm của cả một quá trình dài mà chỉ là trọng điểm của một giai đoạn, một thời
kỳ nào đó mà thôi. Phương pháp luận này chỉ dẫn cho những người nghiên cứu, học tập
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết một cách biện chứng, đúng đắn một loạt các
mối quan hệ trong tiến trình cách mạng Việt Nam mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện;
chẳng hạn, đó là mối quan hệ rất trọng yếu trong cách mạng Việt Nam là giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp qua các thời kỳ; đồng thời, Hồ Chí Minh đã tìm thấy các điểm
tương đồng, từ đó nhân các điểm tương đồng, hạn chế các điểm khác biệt trong các giai
cấp, tầng lớp của xã hội Việt Nam để tạo ra lực lượng cách mạng tổng hợp đấu tranh
giành thắng lợi.
e. Quan điểm kế thừa và phát triển
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa, vận
dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch sử
mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.
Hồ Chí Minh nhìn sự vật và hiện tượng trong một trạng thái vận động không
ngừng. Đó là một quá trình giải phóng mọi trở lực, trở lực bên ngoài, trở lực bên trong,
thậm chí trở lực nằm ngay trong mỗi con người, để phát triển bền vững. Phương pháp
luận Hồ Chí Minh về điểm này là ở chỗ con người phải luôn luôn thích nghi với mọi
hoàn cảnh. Muốn thích nghi, phải luôn luôn tự đổi mới để phát triển. Quá trình phát triển
là quá trình khẳng định cái mới, phủ định cái cũ; đó cũng là quá trình luôn luôn giải
phóng, giải phóng mọi sự ràng buộc lạc hậu để bắt kịp những cái tiên tiến, tiến bộ.
2. Một số phương pháp cụ thể
"Phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các nguyên
tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của đối tượng, khách thể đã được nhận
thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn
của con người, nhằm tác động vào đối tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định"20.
Có thể nêu một số phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để nghiên cứu, học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh:
20 Trong nhiều khái niệm về phương pháp, chúng tui cho rằng, tập thể tác giả của cuốn sách do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ làm
Chủ biên là phù hợp hơn cả. Xem Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997, tr.24-25.11
Phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử và sự kết hợp hai phương pháp này.
Phương pháp lôgíc nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra được bản chất vốn có
của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận. Muôn vàn sự kiện, sự vật và hiện
tượng đều có mối dây liên hệ bản chất, vì thế giữa chúng có lôgíc tất yếu, cần nhận biết
rõ. Phương pháp lịch sử nghiên cứu sự vật và hiện tượng theo trình tự thời gian, quá
trình diễn biến đi từ phát sinh, phát triển đến hệ quả của nó. Ở đây, phương pháp nghiên
cứu lịch sử tư tưởng là cách vận dụng sát hợp với nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, rất cần thiết phải kết hợp sử dụng kết
hợp phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh để lại những bài viết, bài nói đã được tập hợp thành bộ sách
toàn tập21. Nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, đương nhiên trước hết
phải dựa vào những tác phẩm của Người đã để lại. Nhưng, di sản tinh thần quý báu của
Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam không chỉ là những tác phẩm đó, mà còn ở
toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người, những vấn đề phản ánh qua cuộc sống hằng ngày
của Người. Thực tiễn chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam là một bộ
phận cực kỳ quan trọng làm nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Có nhiều nội dung phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh không ở trong văn
bản mà là ở trong chỉ đạo thực tiễn của chính bản thân Hồ Chí Minh; đồng thời phản
ánh qua hoạt động của các đồng chí, qua học trò của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh
không những có vai trò quan trọng ở thời kỳ Hồ Chí Minh sống, mà kể cả khi Người đã
qua đời, tư tưởng đó còn có vai trò làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của toàn Đảng, toàn dân phấn đấu cho mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh không những cần thiết có trong hành trang của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX
mà còn đi với dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo; không những góp
phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ, văn minh của nhân loại trong những thời kỳ trước
đây mà còn cả trong tương lai.
Phương pháp chuyên ngành, liên ngành. Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng của mình
thông qua nhiều lĩnh vực như chính trị, triết học, kinh tế, quân sự, tư tưởng văn hóa, v.v.
Vì vậy, trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp liên ngành cần được
21 Cho đến nay, về cơ bản những văn bản đó được tập hợp trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), Nxb Chính trị quốc
gia, 2011. Chắc chắn là còn nhiều văn bản của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh còn lưu trữ ở nhiều nơi, cả trong và ngoài
nước, cần được sưu tầm, nghiên cứu.12
sử dụng để nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như mỗi tác phẩm
lý luận riêng biệt của Người.
Để việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đạt được trình độ khoa học
ngày một cao hơn, cần đổi mới và hiện đại hóa các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên
cơ sở không ngừng phát triển và hoàn thiện về lý luận và phương pháp luận khoa học
nói chung. Ngoài các phương pháp nêu trên, cần thiết phải sử dụng cả các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, v.v. Những phương pháp nghiên cứu
cụ thể được sử dụng cần xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu nội dung cụ thể của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH ĐỐI VỚI SINH VIÊN
1. Góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận
Với ý nghĩa cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin làm thành nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là
những chỉ dẫn về lý luận và thực tiễn hành động cho những người Việt Nam yêu nước.
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần trong bị cho sinh viên tri thức khoa học về
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắcvề cách mạng Việt Nam; hình thành năng lực,
phương pháp làm việc, niềm tin tình cảm cách mạng; góp phần củng cố cho sinh viên
về lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực,
chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; biết vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực
tư duy lý luận của mỗi con người là điều rất cần thiết để giúp con người giải quyết được
nhiều yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Năng lực đó được hình thành và phát triển từ nhiều
nguồn, trải qua nhiều giai đoạn của cuộc sống, nhưng giai đoạn đang nghiên cứu, học
tập ở trường cao đẳng, đại học rất quan trọng, nó gắn với tuổi trẻ của con người. Hơn
nữa, tri thức và kỹ năng của sinh viên hình thành và phát triển qua nghiên cứu học tập
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là những yếu tố bồi đắp năng lực lý luận để chỉ dẫn
hành động rất quan trọng để trở thành một công dân có ích cho xã hội Việt Nam trong
quá trình thực hiện mục tiêu cao cả: Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, thực hiện lời mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh mà13
Người đã ghi vào bản Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”22.
2. Giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa học gắn
liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước
Qua nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có điều kiện
hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, trong đó đặc biệt là tư tưởng của
Người, học tập gương sáng của một con người suốt đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, lãnh tụ của Đảng, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ kiên cường
đấu tranh vì độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tiến bộ giữa các dân tộc trên thế
giới. Sinh viên nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ có điều kiện tốt trau đồi
phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng để lập thân, lập nghiệp, sống có ích cho xã
hội, yêu và làm những điều thiện, ghét cái xấu, cái ác; nâng cao lòng tự hào về đất nước
Việt Nam, về chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, về Hồ Chí Minh, về Đảng Cộng sản
Việt Nam và nguyện "Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại".
Thông qua việc nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên sẽ
nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định ý thức và trách nhiệm công dân của nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đóng
góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, vững bước trên con
đường cách mạng mà Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
3. Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác
Qua nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có điều kiện
vận dụng tốt hơn những kiến thức và kỹ năng đã nghiên cứu, học tập vào việc xây dựng
phương pháp học tập, tu dưỡng, rèn luyện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng người,
từng địa bàn. Sinh viên có thể vận dụng xây dựng phong cách tư duy, phong cách diễn
đạt, phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt phù hợp với từng
lúc, từng nơi, theo phương châm mà Hồ Chí Minh đã nêu: Dĩ bất biến ứng vạn biến.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng góp phần giáo dục sinh viên tiếp tục hình thành
và hoàn thiện nhân cách để ngày càng cao đẹp hơn, trở thành những chiến sĩ tiên phong
22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t.15, tr.614.14
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, góp phần làm cho đất nước ngày
càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như khát vọng của Hồ Chí Minh và của mỗi người
Việt Nam yêu nước.
NỘI DUNG THẢO LUẬN
1. Phân tích đối tượng nghiên cứu, học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh; tầm
quan trọng của việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Phân tích sự cần thiết phải học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương
trình của nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
6. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – GS Song Thành (Chủ biên): Hồ Chí
Minh – Tiểu sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, từ t.1 đến t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
9. GS,TS Mạch Quang Thắng - PGS,TS Bùi Đình Phong - TS Chu Đức Tính (Đồng
Chủ biên): “UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng
dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.15
Chương 2
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
MỤC TIÊU
- Về kiến thức
Giúp cho sinh viên hiểu rõ cơ sở thực tiễn, lý luận và nhân tố chủ quan hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh; hiểu rõ các giai đoạn cơ bản trong quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về kỹ năng
Giúp cho sinh viên tiếp cận với phương pháp khoa học nhận thức khái quát nội
dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh từ nghiên cứu các cơ sở phong phú hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình hình thành từng bước, lâu dài tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Người.
- Về tư tưởng
Giúp cho sinh viên nhận thức khoa học giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam, từ đó có tư tưởng, tình cảm tích cực trong việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực tế học tập và cuộc sống hàng ngày.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở thực tiễn
a. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta. Triều đình nhà
Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân
Pháp.
Từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống pháp xâm
lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam có các cuộc khởi nghĩa của Trương Định; của Nguyễn
Trung Trực. Ở miền Trung có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Thai Mai; của
Phan Đình Phùng. Ở miền Bắc có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật; của
Phạm Bành và Đinh Công Tráng; của Nguyễn Quang Bích; của Hoàng Hoa Thám, v,v...
Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những cuộc dưới ngọn cờ "Cần Vương" tức giúp vua
cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ nhân
dân ta rất yêu nước. Song, giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực
trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc.16
Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân
Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng bước biến
nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa, nửa phong kiến dẫn tới sự biến
đổi cơ cấu gia cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân
số là nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền chủ
người Pháp và nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong xã hội
Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và
tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong
kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn giữa
giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Từ các biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động
cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản,
ở nước ta xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự
dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách. Phong trào Đông Du do Phan Bội
Châu khởi xướng (1905-1909). Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động năm
1906 đến năm 1908 thì kết thúc. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương văn Can,
Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác phát động từ tháng 3-1907 đến tháng 11- 1907.
Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung kỳ năm 1908.
Các Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất bại.
Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là
các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và phương pháp
cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn âm ỷ sục sôi trong lòng nhân dân. Song,
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu hỏi từ thực tiễn
đó đặt ra là: Cứu nước bằng con đường nào mới có thể đi đến thắng lợi?
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân, và phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở
nước ta xuất hiện "dấu hiệu mới" của một thời đại mới sắp ra đời.
Cuối thế kỷ XIX , ở Việt Nam đã có tầng lớp công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là
một lực lượng ít ỏi, không ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn và trở
thành một giai cấp ngay từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918.17
Công nhân Việt Nam chịu 3 tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến. Họ
sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu tranh thô sơ như đốt lán
trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công.
“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách, mạng nhất, luôn luôn gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân”23. Phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX
và các phong trào yêu nước là mảnh đất tốt để lý luận cách mạng mới của chủ nghĩa
Mác-Lênin nảy mầm, ra hoa kết trái. Chính Hồ Chí Minh là người đã dày công truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước hoàn thành về cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng
Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần
bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện.
b. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc Anh,
Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan,v,v… đã chi phối toàn
bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, và Mỹ Latinh đã trở thành
thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản
là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa
các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ
nghĩa đế quốc, sang đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành
lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong
muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa MácLênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười
đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên một xã hội mới, xã
hội xã hội chủ nghĩa.
23 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t.12, tr.407.18
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, mở
ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva. Dưới sự lãnh đạo của Lênin,
Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm Cách
mạng Tháng Mười ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh
mẽ của các đảng cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết, Quốc tế Cộng
sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ
phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng
sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới đi tìm mục tiêu và con đường cứu
nước.
2. Cơ sở lý luận
a. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua
mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu nước là
nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường
cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất
vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Lãnh đạo Cách mạng Tháng tám năm 1945 thành
công, trong áng hùng văn dựng nước Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”24.
Không có gì quý hơn độc lập tự do - Chân lý lớn của thời đại được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết sức
chú trọng kế thừa, phát triển một nội dung cơ bản trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
là Yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ,
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một thời đại
vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phầm xứng đáng với dân tộc anh
hùng và thời đại vẻ vang.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng
văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và
khát vọng của quần chúng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng
hồn; phải trả lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu mà viết?
Cách viết như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng
chữ. Nói cũng vậy. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng
thích hơn. Tóm lại “từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. Trên cơ sở đó
để định hướng giá trị cho quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những
người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu
quý. Và chính họ là những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản
phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 8-1943, cùng với việc đưa ra quan
niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa
dân tộc với năm nội dung. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. Xây dựng luân
lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp liên
quan đến phúc lợi của nhân dân. Xây dựng chính trị: dân quyền. Xây dựng kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ, gian khổ, Hồ Chí Minh khẳng định lại quan điểm của Đảng ta từ năm
1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn hóa mới.
Đó là một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã
hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:


 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top