daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đặc trưng ngôn ngữ - Văn hóa Việt qua thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc (so sánh với tiếng Anh)

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
MỤC LỤC.................................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN.....................................................v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ................................................................................. vii
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................2
3. Lịch sử vấn đề:..................................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................8
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ........................................9
Chương 1: Tổng quan về thành ngữ, tục ngữ ...........................................................10
1.1.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ .....................................................................10
1.1.2. Khái quát thành ngữ và tục ngữ có từ chỉ màu sắc.....................................14
Chương 2: Từ chỉ màu sắc trong thành ngữ, tục ngữ tiếngViệt (so sánh với tiếng
Anh)...........................................................................................................................33
2.1. Nguồn ngữ liệu...................................................................................................33
2.1.1. Số lượng khảo sát............................................................................................33
2.1.2. Nhận xét chung................................................................................................33
2.1.3. Nhận xét về trường hợp thành ngữ trong tục ngữ...........................................33
2.2. Nhận xét về từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng
Anh............................................................................................................................35
2.2.1. Tên, tần số xuất hiện và khả năng kết hợp của từ chỉ màu sắc trong thành
ngữ, tục ngữ tiếng Việt (So sánh với tiếng Anh) .......................................................35
2.2.2. Nghĩa sở thị của từ chỉ màu sắc trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng
Anh ............................................................................................................................502.3. Tiểu kết...............................................................................................................53
Chương 3: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ,
tục ngữ tiếng Việt (so với tiếng Anh) .......................................................................54
3.1. Những giá trị biểu trưng về con người...............................................................54
3.1.1. Đối tượng..................................................................................................54
3.1.2. Thuộc tính, tính chất.................................................................................67
3.1.3. Trạng thái, tâm trạng ...............................................................................83
3.1.4. Tình trạng sức khoẻ..................................................................................91
3.1.5. Thời vận....................................................................................................96
3.2. Những giá trị biểu hiện của từ chỉ màu sắc về hiện tượng xã hội....................101
3.3. Những giá trị biểu hiện của từ chỉ màu sắc về hiện tượng tự nhiên ................109
3.4. Tiểu kết.............................................................................................................116
KẾT LUẬN.............................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................122
PHỤ LỤC................................................................................................................131
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển và trong xu thế đổi mới, hội nhập của đất nước, vấn
đề bản sắc văn hoá dân tộc được quan tâm sâu sắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Tuỳ theo góc nhìn, văn hoá và bản sắc văn hoá của dân tộc được nghiên cứu trong
mối quan hệ liên ngành khác nhau, trong đó có mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hoá. Mối quan hệ này ngay từ đầu đã được đông đảo giới nghiên cứu trên toàn thế
giới quan tâm và nhìn nhận khác nhau: như Humboldt với lý thuyết Ngôn ngữ và
linh hồn dân tộc; E. Sapir và Whorf với quan niệm về tính tương đối ngôn ngữ
(linguistic relativity), mà Carroll đã gọi là giả thuyết Sapir - Whorf; và cả những giả
thuyết của Weisberger và Tiber, Boas, Kroeber…
Những vấn đề về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ngày càng được xem
xét ở diện rộng hơn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi. Thật sự ngôn ngữ và văn
hoá có mối quan hệ gắn bó với nhau, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp,
không chỉ là công cụ để tư duy mà còn là quan niệm của chính con người với tư
cách là chủ thể tri nhận và phân cắt hiện thực bằng mã ngôn ngữ.
Để làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, việc nghiên cứu lớp thành
ngữ và tục ngữ, một trong những đơn vị cấu thành và chứa đựng văn hoá, là điều
đáng được chú ý. Đặc trưng văn hoá của dân tộc không chỉ thể hiện qua những quan
niệm về nhân sinh, về thế giới và kinh nghiệm đúc kết trong thành ngữ, tục ngữ mà
nó còn thể hiện thông qua những hình ảnh biểu trưng, những tính chất, sắc thái của
hình ảnh mang biểu tượng. Và thông qua thế so sánh đối chiếu với dân tộc khác, ta
mới nhận ra được nét đặc trưng riêng biệt và những điểm tương đồng trong cách tri
nhận và phân cắt thực tại giữa các cộng đồng thông qua mã ngôn ngữ.
Ngôn ngữ phản ánh nền văn hoá dân tộc, do đó, xuất phát từ những cứ liệu ngôn
ngữ mang đậm dấu ấn văn hoá dân tộc, ta có thể giả định rằng có sự khác nhau đángkể về đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt và tiếng Anh.
Chính vì thế người viết đã chọn đề tài: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá Việt
qua thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc (so sánh với tiếng Anh).
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết hướng đến những mục đích sau:
- Tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hoá dựa trên cứ liệu là
thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và góp phần làm rõ vấn đề
hàm nghĩa văn hoá thể hiện qua ngôn ngữ.
- Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ văn hoá của người Việt dựa trên cứ liệu là
thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc, trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Anh.
3. Lịch sử vấn đề:
Bàn về vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa, có nhiều khuynh hướng khác
nhau. Chẳng hạn như E.B Tylor (1871) nghiên cứu về văn hoá nguyên thuỷ, V.Ia
Prop bàn về Folklore và thực tại, V.M Rodin (1998) tìm hiểu các trường phái văn
hoá học thế giới, R. Lado (1957) tìm hiểu ngôn ngữ học qua các nền văn hoá...Và
dưới góc độ liên ngành, vấn đề bản sắc văn hoá của dân tộc cũng đang được giới
nghiên cứu quan tâm. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này, trong đó vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong mối quan
hệ với ngôn ngữ cũng đáng được chú ý.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hóa và theo Wardhaugh có thể quy thành ba điểm chính: thứ nhất là cấu trúc
của một ngôn ngữ quyết định cách nhìn thế giới của người nói ngôn ngữ đó; thứ hai
là văn hóa của một dân tộc tìm thấy sự phản ánh trong ngôn ngữ mà họ sử dụng; và
thứ ba là không có mối quan hệ nào cả giữa ngôn ngữ và văn hóa.
Về quan niệm thứ nhất có thể kể đến các nhà ngôn ngữ Đức: Humboldt,
Weisberger và Triber, các nhà ngôn ngữ Mỹ: Boas, Sapir và Whorf. Với lý thuyết
của mình, Humboldt cho rằng ngôn ngữ là sức mạnh hình thành nên tinh thần, ông
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phinhấn mạnh vào khả năng sáng tạo ngôn ngữ trong đầu từng người nói, lời nói của
con người là tinh thần của họ, tinh thần của họ là lời nói của họ. Còn L.Weisgerber
công nhận rằng ngôn ngữ trong bất kì trạng thái nào cũng tạo nên một thế giới quan
trọn vẹn; mỗi ngôn ngữ gắn với một dân tộc và mỗi ngôn ngữ thể hiện một quan
niệm về thế giới và dĩ nhiên thế giới được bộc lộ một cách khác nhau.
Sapir và Whorf quan niệm về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá có thể
được tóm tắt như sau: ngôn ngữ quyết định tư duy và quá trình nhận thức của con
người, quyết định văn hoá và hành vi xã hội, thế giới quan và toàn bộ bức tranh thế
giới xảy ra trong ý thức... Như vậy theo họ, văn hoá và tư duy lệ thuộc vào ngôn
ngữ, Sapir đã từng nói ngôn ngữ là “chỉ dẫn cho hiện thực xã hội” và là “chỉ dẫn
mang tính biểu trưng cho văn hoá” (Dẫn theo Stern 1983). Còn Whorf thì đưa ra ví
dụ sống động về cách mà người Eskimo diễn đạt khác nhau cho một từ “snow”
(tuyết). Ngoài ra, Whorf còn cho rằng việc nghiên cứu các phạm trù ngữ pháp của
các ngôn ngữ sẽ dẫn đến những hiểu biết sâu sắc về văn hoá.
Về khuynh hướng đề cao vai trò của văn hoá có thể kể đến Malinowski. Tác
giả cho rằng văn hoá đóng một vai trò rất quan trọng, “ngôn ngữ nhất thiết có
nguồn gốc từ hiện thực của nền văn hoá” và “không thể giải thích nó được nếu
không quy chiếu liên tục vào những ngữ cảnh rộng hơn của phát ngôn bằng lời”
(Dẫn theo Stern, 1983).
Ngược lại với hai quan điểm trên, thay mặt cho quan điểm thứ ba có thể tính
đến quan điểm trong công trình “Cấu trúc và chức năng trong xã hội nguyên thuỷ”,
Radcliffe - Brown cho rằng dù có một mối quan hệ nào đó rất tổng quát giữa cấu
trúc xã hội và ngôn ngữ, nhưng không có mối quan hệ trực tiếp giữa những đặc
trưng của cấu trúc xã hội của một cộng đồng và ngôn ngữ mà cộng đồng đó nói.
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu không có nhiều ý kiến trái ngược như vậy.
Hầu như những ai quan tâm nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ đều khẳng định mối
quan hệ nhất định nào đó giữa chúng nhưng theo những khuynh hướng khác nhau.
Có thể kể đến một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá như Trần Ngọc Thêm,
Nguyễn Lai, Nguyễn Kim Thản, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu, Lý Toàn Thắng, Đào Thản,Trần Trí Dõi, Nguyễn Đức Tồn, Phạm Đức Dương, Nguyễn Văn Nở,… Một số nhà
văn hoá có đề cập đến ngôn ngữ như Đinh Gia Khánh, Trần Quốc Vượng…
Tuy đã có nhiều hướng, nhiều kết quả nghiên cứu về văn hoá, đã có những
công trình đề cập đến các biểu hiện của văn hoá trên nhiều phương diện, nhưng việc
làm rõ đặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ, đặc biệt là trên dẫn liệu tục
ngữ và thành ngữ thì đang còn là một vấn đề cần được phân tích và hệ thống
hoá một cách đầy đủ và toàn diện hơn.
Khi bàn đến sự thể hiện của văn hoá, người ta nói đến những biểu hiện của
văn hoá qua các phương tiện khác nhau như: qua âm thanh, màu sắc, hình khối,
đường nét, và nhiều phương tiện biểu hiện khác. Một trong những phương tiện quan
trọng để tìm hiểu văn hoá, giải mã văn hoá là ngôn ngữ: ngôn ngữ trong giao tiếp
hàng ngày, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ trong sáng tác dân gian…
Các công trình khoa học cũng đã ít nhiều nói đến vấn đề này. Các hướng nghiên
cứu gồm:
Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ thi pháp học: Tìm hiểu thi pháp tục ngữ (Phan
Thị Đào, 2001; Tục ngữ Việt Nam - Cấu trúc và thi pháp (Nguyễn Thái Hòa). Từ
góc độ ngôn ngữ - văn hoá: Thành ngữ tiếng Việt nhìn từ góc độ bản sắc văn hóa
dân tộc (Nguyễn Xuân Hòa), Đặc trưng cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ, tục
ngữ trong ca dao người Việt (Nguyễn Nhã Bản, 2005)… Nhiều công trình nghiên
cứu văn hoá từ góc độ ngôn ngữ: Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá
(Nguyễn Tài Cẩn, 2005), Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hoá (Nguyễn
Quang, 2008), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc qua ngôn ngữ và tư duy ở
người Việt (Nguyễn Đức Tồn, 2002)…
Bên cạnh những khuynh hướng nghiên cứu, những công trình trên còn nhiều bài
viết, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề, có thể kể đến một số công trình và bài
viết:
- Với đề tài “Ngữ nghĩa của từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh
với tiếng Anh)”, Nguyễn Thị Bảo đã làm rõ ngữ nghĩa văn hoá của từ ngữ chỉ động
vật trong thành ngữ tiếng Việt trong thế so sánh với tiếng Anh.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi- Nguyễn Thanh Tùng nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ - văn
hoá của nhóm từ chỉ động thực vật trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh) (luận án
Tiến sĩ). Thông qua cứ liệu là nhóm từ chỉ động thực vật của cả tiếng Việt và tiếng
Anh, người viết đã tìm ra được những nét đặc trưng ngôn ngữ văn hoá tương đồng
và dị biệt trong tiếng Việt so với tiếng Anh.
- Với đề tài “Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể
người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), Nguyễn Thị Phượng đã
xác lập mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, trên cơ sở là những thành ngữ có
chứa bộ phận cơ thể người của tiếng Việt và tiếng Anh, và phân tích được những
đặc trưng ngôn ngữ văn hóa đặc trưng trên cứ liệu tiếng Việt trong thế so sánh với
tiếng Anh.
Còn về vấn đề nghiên cứu tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng
Việt có nhiều công trình, có thể kể đến một số bài viết và công trình sau:
- Trần Thị Thu Huyền có bài viết “Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ tiếng
Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, số 12, 2001. Không dẫn ra nguồn và số
lượng ngữ liệu, tác giả chỉ nêu ra những nhận xét mang tính khái quát từ những
điểm tương đồng về hình thức đến những điểm tương đồng và dị biệt trong nhận
thức của hai dân tộc về “màu sắc, hoa, cỏ” trong thành ngữ - tục ngữ. Ưu điểm của
bài viết là không những nêu ra được những điểm tương đồng của thành ngữ tục ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh có chứa “hoa”, “cỏ”, “màu sắc” cả về vần điệu và thủ pháp
ngữ nghĩa và một vài điểm đồng nhất trong nhận thức của cả hai dân tộc thông qua
ý nghĩa biểu trưng của nó mà còn thấy được những điểm dị biệt trong nhận thức do
xuất phát từ hai nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên những nhận xét rút ra chưa được
phân tích và chứng minh đúng mức nên bài viết chỉ dừng lại ở những luận điểm
mang tính nhận xét chung chung. Kết thúc bài viết, tác giả khẳng định: qua mảng từ
ngữ này ta có thể hiểu thêm về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của hai dân
tộc. Nhưng cách hiểu như thế nào thì chưa được tác giả phân tích rõ trong toàn bài
viết.- Trong bài viết “Vài nét đặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện qua các từ chỉ màu
sắc”, Ngôn ngữ và đời sống, số 6, 2006, từ việc khẳng định từ vựng của một ngôn
ngữ là nơi bộc lộ rõ nét nhất bản sắc văn hóa dân tộc, Lê Thị Vy đã bước đầu chứng
minh đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện rõ nét trong việc chọn ý nghĩa biểu
trưng của màu sắc trong từng nền văn hóa. Từ đó tác giả nêu lên mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và thực tại khách quan, ngôn ngữ và văn hóa. Ngôn ngữ là công cụ cấu
trúc hóa, mô hình hóa thực tại khách quan; giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng
tác giả lại nêu ra một luận điểm cần bàn luận thêm: cách cảm nhận và hệ thống
từ vựng chỉ màu sắc trong mỗi ngôn ngữ thực sự đã ủng hộ cho giả thuyết Sapir -
Whorf về mối quan hệ qua lại giữa tư duy, ngôn ngữ và văn hóa. Nhìn chung bài
viết chỉ dừng lại ở những vấn đề cơ bản, chưa đi sâu vào từng biểu hiện cụ thể.
- Trịnh Thị Minh Hương có công trình “Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt” (Luận văn Thạc sĩ NNH), 2009. Dựa trên cứ liệu là các văn bản
thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương, người viết đã nêu bật được ý nghĩa biểu
trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, người viết còn dành
một chương để so sánh ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh, dù ngữ liệu thành ngữ dẫn ra không nhiều nhưng người viết
đã nêu được một số điểm tương đồng và khác biệt trong cách tri nhận về các nhóm
màu và hàm nghĩa biểu trưng được thể hiện trong từ ngữ chỉ màu sắc trong phạm vi
hoạt động là thành ngữ. Với mục đích hướng vào tính biểu trưng của từ chỉ màu
sắc, nên người viết không đi sâu vào bình diện ngôn ngữ văn hóa của từ, cũng như
chưa đi vào nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa văn hóa của thành ngữ tục ngữ. Với số
liệu thành ngữ hạn chế và hạn định trong một chương, dù đã nêu được cơ bản
những điểm tương đồng và dị biệt trong tính biểu trưng của màu sắc nhưng người
viết chưa khái quát và đi sâu phân tích cách tri nhận màu sắc cũng như sự tương
đồng và khác biệt về đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của hai dân tộc.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững bài viết và công trình nghiên cứu trên là những cơ sở trực tiếp cho người
viết thực hiện đề tài: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá Việt qua thành ngữ, tục ngữ có
từ chỉ màu sắc (so sánh với tiếng Anh).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng của luận văn, người viết chỉ tìm hiểu những đặc trưng ngôn
ngữ - văn hóa của từ chỉ màu sắc chính danh trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt
trong thế so sánh với tiếng Anh.
Về phạm vi nguồn ngữ liệu, người viết dựa vào các tài liệu sau:
- Thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam (Việt Chương) [6, 7].
- Tục ngữ Việt Nam (Chu Xuân Diên) [14].
- Tục ngữ Việt Nam (Chu Xuân Diên chủ biên) [15].
- Thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt (Vũ Dung chủ biên) [17].
- Từ điển tục ngữ Việt Nam (Nguyễn Đức Dương) [19].
- Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1 và tập 2 (Nguyễn Xuân Kính) [45, 46].
- Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam (Nguyễn Lân) [49, 50].
- Từ điển tục ngữ thế giới (Gerd de Ley (Lê Thành dịch)) [51].
- Thành ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lực chủ biên) [54].
- Thành ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lực) [55].
- Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan) [66].
- Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) [67].
- Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông (Nguyễn Như Ý) [101].
- Từ điển thành ngữ Việt Nam (Nguyễn Như Ý chủ biên) [103].
- Thành ngữ tục ngữ Việt Nam (Du Yên) [104].
- Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt - Anh tường giải (Bùi Phụng) [68].
- Thành ngữ trong tiếng Anh (Lê Thành Tâm, Lê Ngọc Phương Tâm) [71].
- Oxford dictionary of English idioms (Cowie A.P., Mackin R., Mc Caig I.R)
[108].
- The Oxford encyclopedic English dictionary (Judith Pearsall, Bill Trumble)
[110].- English idioms (J. Seidl and W. McMordie) [111].
- A dictionary of American idioms (Maxine Tull Boat, John Eward Gates)
[113].
- English idioms in use (Michael McCarthy, Felicity O&Dell) [114].
- Idiom - Dictionary for leaners of English [117].
- The idiom of the people (Reeves, James) [118].
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê - miêu tả: Người viết tìm ra những thành ngữ, tục
ngữ có chứa những từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và tiếng Anh, sau đó thống
kê số lượng từ chỉ màu sắc trong từng ngôn ngữ. Từ ngữ liệu đó, người viết thống
kê và xác định tần số xuất hiện của từng màu cụ thể trong thành ngữ và tục ngữ của
hai ngôn ngữ.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Phân tích ngữ nghĩa cũng như nghĩa
biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ, tục ngữ.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Nhằm tìm ra những nét tương đồng và
khác biệt về ngôn ngữ - văn hoá của hai ngôn ngữ thông qua đặc trưng văn hoá
ngôn ngữ của từ chỉ màu sắc và của thành ngữ, tục ngữ.
Phương pháp hệ thống: Khi tập hợp các từ chỉ màu sắc, người viết sắp xếp
chúng theo những tiêu chí nhất định về ý nghĩa biểu trưng và khả năng kết hợp.
Kết hợp với những phương pháp trên, người viết còn đưa ra giả thuyết: Xuất
phát từ hai loại hình văn hoá khác nhau, văn hoá người Việt thì gắn liền với nền sản
xuất nông nghiệp còn văn hoá Anh thì gắn liền với du canh du cư… từ đó hình
thành nên những đặc trưng tư duy khác nhau, nên người viết đưa ra giả thuyết về
tính khác biệt đáng kể trong cách vận dụng màu sắc trong thành ngữ, tục ngữ và cả
trong cách mỗi cộng đồng tư duy và gửi gắm yếu tố văn hoá trong đó. Giả thuyết đó
sẽ được kiểm chứng dựa trên cứ liệu thực tế. Cách giải thích và kết luận của luận
văn đều dựa trên những cứ liệu thu thập được.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
- Đóng góp vào việc tìm hiểu những khác biệt về ngôn ngữ do đặc trưng văn
hóa, tư duy quy định.
- Cung cấp thêm tư liệu nghiên cứu về bản sắc văn hóa của hai dân tộc và góp
phần trực tiếp vào việc giảng dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài và ngược
lại.Chương 1:
Tổng quan về thành ngữ, tục ngữ
1.1. Khái quát về thành ngữ và tục ngữ
1.1.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ
Thành ngữ, tục ngữ là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau, do đó
việc xác định khái niệm thành ngữ, tục ngữ là một công việc khó khăn. Tùy theo
góc nhìn mà thành ngữ, tục ngữ được hiểu bằng những nội hàm khác nhau. Ngay
dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, thành ngữ, tục ngữ cũng được xem xét và kiến
giải khác nhau… Người viết chỉ đề cập đến quan niệm thành ngữ, tục ngữ được
nhiều nhà ngôn ngữ tán thành để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
1.1.1.1. Khái niệm thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh
Trong tiếng Việt, thành ngữ được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ các
nhà nghiên cứu văn học dân gian đến các nhà ngôn ngữ học. Dưới góc độ ngôn ngữ
học, thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ thuộc cụm từ cố định. Và theo “Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ học”: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính
nguyên khối về nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác với
tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó tức là không có nghĩa đen và hoạt
động như một từ riêng biệt ở trong câu” [100, tr. 271].
Trong bài “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ và tục ngữ”, Cù Đình Tú đã
quan niệm: “Thành ngữ là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, nói
khác đi dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động.” [92, tr.39].
Nguyễn Văn Mệnh trong “Vài suy nghĩ góp phần xác định khái niệm thành
ngữ tiếng Việt” quan niệm: “Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ có sẵn. Chúng là
những ngữ có kết cấu chặt chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định, có chức
năng định danh và được tái hiện trong giao tế.” [58, tr.12].
Nguyễn Thiện Giáp thì định nghĩa: “Thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa
của nó không được tạo thành từ các ý nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Ngay cả khi
nghĩa của tất cả các từ trong đó vẫn chưa thể đoán chắc nghĩa thành ngữ của cụm
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phitừ đó… Thành ngữ có tính hoàn chỉnh về nghĩa nhưng lại có tính chất tách biệt của
các thành tố trong kết cấu, do đó nó hoạt động trong câu với tư cách tương đương
với một từ cá biệt…” [26, tr.391].
Tóm lại, có thể hiểu một cách cơ bản, thành ngữ là cụm từ cố định có tính
chất gợi hình, nghĩa của thành ngữ là nghĩa của toàn khối, nó là sự miêu tả một hình
ảnh, một hành động, một tính chất hay một trạng thái. Nó mang chức năng định
danh chứ không nêu lên một thông báo.
Đối với thành ngữ tiếng Anh, nó cũng mang những điểm cơ bản tương tự
như thành ngữ tiếng Việt nói riêng và thành ngữ của các ngôn ngữ trên thế giới nói
chung. Trong công trình “English idioms”, J. Seidl và W. McMordie quan niệm:
“thành ngữ có thể định nghĩa là một số các từ, khi đi với nhau, có nghĩa khác với
nghĩa của mỗi từ riêng lẻ” [108] (An idioms can be defined as a number of words
which, when taken together, have a different meaning from the individual meanings
of each word). Còn các tác giả trong “English idioms in use” cũng cho rằng: “thành
ngữ là những cụm từ cố định mà nghĩa của chúng không được trực tiếp nhận ra từ
nghĩa của các từ riêng lẻ trong thành ngữ” [111] (Idioms are fixed of expressions
whose meaning is not immediately obvious from looking at the individual words in
the idiom).
Trong tiếng Anh, thành ngữ có nhiều dạng và nhiều cấu trúc khác nhau. Một
thành ngữ có thể có cấu trúc mang tính có quy tắc hay không có quy tắc, thậm chí
là không đúng câu trúc ngữ pháp. Sự rõ ràng về nghĩa của thành ngữ không phụ
thuộc vào “tính đúng ngữ pháp”. Chẳng hạn:
- Hình thức bất quy tắc, nghĩa rõ ràng như trong give some to understand, do
some proud, do the dirty on some one…
- Hình thức có quy tắc, nghĩa mơ hồ như have a bee in one’s bonnet, cut no
ice, bring the house down…
- Hình thức bất quy tắc, nghĩa mơ hồ như trong be at large, go great guns, be
at dangers drawn…Theo hai tác giả này thì thành ngữ tiếng Anh đa số là thuộc nhóm có quy tắc
nhưng nghĩa không rõ ràng. Họ cũng cho rằng không thể thay đổi bất kì thành phần
nào trong thành ngữ, chỉ trừ một vài thành ngữ có biến thể. Ví dụ trong thành ngữ
eat one’s word (rút lại lời đã nói) thì không thể nói eat one’s sentences hoặc
swallow one’s word…
Còn John Saeed thì định nghĩa: thành ngữ được xem như những từ tập hợp
lại để trở nên gắn liền với nhau đến khi chúng trở thành một kết cấu bền vững
(“Idiom” as words collocated that became affixed to each other until
metamorphosing into a fossilised term) [Dẫn theo Wikipedia]. Các tác giả “Từ điển
thành ngữ tiếng Anh” (English idiom - Longman) cho rằng thành ngữ là cụm từ mà
nghĩa của nó khác với nghĩa của từng từ riêng biệt cộng lại (a group of words that
have a different meaning from the usual meaning of the separate words).
Tóm lại, cũng như thành ngữ tiếng Việt, thành ngữ tiếng Anh là một cụm từ
mang chức năng định danh, gợi hình, mà nghĩa của nó không phải là tổng cộng ý
nghĩa của từng từ trong thành ngữ đó và nó đa dạng về cấu trúc.
1.1.1.2. Khái niệm tục ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh
Từ điển bách khoa Wikipedia đã định nghĩa về tục ngữ:
Một câu tục ngữ (từ tiếng La tinh: proverbium) là một câu đơn giản và cụ thể
được nhiều người biết đến và lặp đi lặp lại, nó thể hiện một sự thật, dựa trên ý nghĩa
thông thường hay kinh nghiệm thực tế của nhân loại. Chúng thường mang nghĩa ẩn
dụ. (A proverb (from Latin: proverbium) is a simple and concrete saying popularly
known and repeated, which expresses a truth, based on common sense or the
practical experience of humanity. They are often metaphorical).
Tục ngữ của các dân tộc trên thế giới đều có những điểm tương đồng. Tuy vậy,
do đặc điểm tâm lý dân tộc khác nhau và các ngôn ngữ không giống nhau nên tục
ngữ của mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng của nó.
Hoàng Trinh trong “Từ kí hiệu học đến thi pháp học” đã từng nhận xét rằng:
“Ngay một số nhà tục ngữ học vào loại hàng đầu cũng phải thừa nhận là không
một định nghĩa nào có thể cho phép xác định rõ ràng như thế nào là một câu tục
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phingữ” [91, tr.173]. Do đó, người viết sẽ không đi sâu vào tìm hiểu, phân tích định
nghĩa khoa học về tục ngữ mà chỉ dẫn ra một số cách hiểu và những đặc trưng cơ
bản của tục ngữ.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (1996): Tục ngữ là “Câu nói
ngắn gọn, có cấu trúc tương đối ổn định, đúc kết kinh nghiệm sống, đạo đức, tri
thức của một dân tộc. Khác với cách ngôn, tục ngữ không bao hàm ý nghĩa khuyên
răn trực tiếp” [100, tr. 329].
Nguyễn Thái Hòa trong “Tục ngữ Việt Nam - cấu trúc và thi pháp” đã quan
niệm: “Tục ngữ là những phát ngôn hình thành trong lời thoại hằng ngày. Đó là
những đơn vị lời nói nhưng tồn tại trong ký ức của cộng đồng như là một đơn vị
ngôn ngữ, nói như J. Lyons là “những phát ngôn làm sẵn”” [35, tr.48].
Đối với tục ngữ tiếng Anh, Wikiquote định nghĩa như sau: Tục ngữ thường
được định nghĩa như những cách diễn đạt ngắn về một kinh nghiệm phổ biến.
Những nỗ lực để cải thiện định nghĩa phổ quát cũng không mang lại một định nghĩa
chính xác hơn. Những kinh nghiệm, tri thức thường ở dạng những kiến thức chung
về thế giới hay lời khuyên, đôi khi gần với thái độ đối với hoàn cảnh. (Proverbs are
popularly defined as short expressions of popular wisdom. Efforts to improve on the
popular definition have not led to a more precise definition. The wisdom is in the
form of a general observation about the world or a bit of advice, sometimes more
nearly an attitude toward a situation)
2.1.4. Sức khỏe
Thuộc phạm vi này, TNTN tiếng Việt có 35 đơn vị, chiếm 4.1%; trong khi
TNTN tiếng Anh có 23 đơn vị, chiếm 5.1%. Không những mức độ quan tâm của cả
dân tộc về tình trạng sức khỏe gần như tương đồng mà ý nghĩa biểu trưng của
YTMS cũng có nhiều điểm chung ở cả hai ngôn ngữ.
Màu xanh lá là màu chủ đạo trong biểu trưng sức khỏe của cả hai ngôn ngữ.
Nhóm màu tích cực và tiêu cực ở cả hai ngôn ngữ tương đồng: hồng, đỏ biểu trưng
tích cực; xanh lá, tái, xám, đen biểu trưng mang tính tiêu cực.
Cách thức biểu trưng là điểm đặc trưng của từng ngôn ngữ.
2.1.5. Thời vận
Ngữ liệu tiếng Việt có 34 đơn vị, chiếm 4%; trong khi TNTN tiếng Anh có
14 đơn vị chiếm 3.1%. Các YTMS biểu trưng trong mỗi ngôn ngữ khác nhau. Trong
tiếng Việt, các YTMS thường đi kèm để biểu trưng đối lập và tính chất biểu trưng
của chúng quy định lẫn nhau, những ý nghĩa biểu trưng này vừa mang tri nhận thơ
ngộ của người bản ngữ vừa dựa trên hiện thực cuộc sống; trong khi các YTMS
trong tiếng Anh biểu trưng cho thời vận gắn liền với những sự kiện lịch sử -xã hội
Anh.
2.2. Phạm vi biểu trưng hiện tượng, thuộc tính xã hội,
Ngữ liệu nguồn tiếng Việt có 100 đơn vị, chiếm 12%; trong khi TNTN tiếng
Anh có 158 đơn vị, chiếm 35.1%. Người Anh chú trọng nhiều đến những vấn đề,
thuộc tính và hiện tượng xã hội hơn. Những vấn đề mà YTMS trong TNTN tiếng
Anh biểu trưng thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phản ánh tinh thần của
lịch sử xã hội Anh. Trong khi những vấn đề mà YTMS trong TNTN tiếng Việt
mang tính chung chung.
YTMS ở cả hai ngôn ngữ có nhiều điểm tương đồng về khả năng và phương
thức biểu trưng. Đen là màu biểu trưng tiêu cực và chủ đạo. Cặp màu đen - trắng là
cặp màu biểu trưng đối lập và tham gia tạo cấu trúc biểu trưng ở cả hai ngôn ngữ.
2.3. Phạm vi hiện tượng, thuộc tính tự nhiên
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H Đặc trưng ngôn ngữ của người dẫn chương trình trong các chương trình văn hóa của đài truyền hình Việ Văn hóa, Xã hội 0
D So sánh đối chiếu đặc trưng ngôn ngữ văn hóa giữa các yếu tố chỉ đồ vật trong thành ngữ tiếng Hán và Tiếng Việt Văn hóa, Xã hội 6
H Bước đầu tìm hiểu một số đặc trưng của ngôn ngữ trong hoạt động PR (Quan hệ công chúng) ở Việt Nam h Văn hóa, Xã hội 0
N Đặc trưng văn hóa-dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện tượng tên gọi đồng nghĩa chỉ bộ phận cơ thể c Văn hóa, Xã hội 0
N Đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của phát ngôn hỏi - cầu khiến trong tiếng Việt Văn hóa, Xã hội 0
K Khảo sát đặc trưng các diễn ngôn tin trên một số trang web tiếng Anh năm 2010 Văn hóa, Xã hội 0
A Ứng dụng lý thuyết đồ thị để khảo sát đặc trưng một số lớp ngôn ngữ và điều khiển tương tranh Khoa học Tự nhiên 0
G Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so Tài liệu chưa phân loại 0
J Đặc trưng ngôn ngữ trong ca dao Tài liệu chưa phân loại 2
H Đặc trưng ngôn ngữ - Văn hóa của hành vi chào hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top