hoang_ns2000

New Member
Luận văn Quy định về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam



LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI ...............4
1.1 Khái quát chung về Trọng tài ...............................................................................4
1.1.1 Khái niệm Trọng tài .......................................................................................4
1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài ..................................................................................4
1.1.3 Vai trò của Trọng tài ......................................................................................5
1.2 Sự hình thành và phát triển của Trọng tài.............................................................6
1.3 Ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằngTrọng tài.........................................8
1.4 Vấn đề giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam
hiện nay.....................................................................................................................9
1.4.1 Thẩm quyền của Trọng tài .............................................................................9
1.4.2 Điều kiện để vụ tranh chấp được giải quyết theo thủ tục tố tụng Trọng tài ....12
1.4.2.1 Phát sinh từ hoạt động thương mại ............................................................12
1.4.2.2 Có thỏa thuận Trọng tài.............................................................................13
1.4.2.3 Chủ thể .....................................................................................................14
1.5 Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài .......................................................14
1.5.1 Thành lập Hội đồng Trọng tài tại Trung tâm Trọng tài ...................................14
1.5.2 Hội đồng Trọng tài do các bên thành lâp. .......................................................15
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................17
2.1 Khái niệm của việc thi hành quyết định của Trọng tài..........................................17
2.2 Bản chất của việc thi hành quyết định của Trọng tài ............................................17
2.3 Sự cần thiết của việc thi hành quyết định của Trọng tài........................................19
2.4 Trình tự, thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài theo pháp luật Việt Nam hiện
hành...........................................................................................................................21
2.4.1 Điều kiện để thi hành quyết định của Trọng tài ..............................................22
2.4.2 Thủ tục yêu cầu thi hành quyết định của Trọng tài tại cơ quan thi hành án
dân sự ......................................................................................................................23
2.4.2.1 Ra quyết định thi hành án..........................................................................24
2.4.2.2 Để tự nguyện thi hành án ..........................................................................26
2.4.2.3 Cưỡng chế thi hành án...............................................................................27
2.4.2.4 Kết thúc việc thi hành án...........................................................................29
2.5 Trình tự, thủ tục yêu cầu tòa hủy quyết định của Trọng tàithương mại tại
Việt Nam. .................................................................................................................31
2.5.1 Căn cứ hủy quyết định của Trọng tài..............................................................31
2.5.2 Thủ tục yêu cầu tòa hủy quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam. .32
2.6 Trình tự, thủ tục về việc công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam. ..........................................................................................34
2.6.1 Trình tự, thủ tục xét đơn công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam. ..........................................................................................34
2.6.2 Các điều kiện không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài. ...........38
2.6.3 Trình tự thủ tục cho thi hành quyết định của Trọng tàinước ngoài tại
Việt Nam. ..................................................................................................................44
CHƯƠNG 3: NHỮNG KHÓ KHĂN, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CỦA
THỰC TIỄN CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM........................................................................... 48
KẾT LUẬN..............................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU

Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường với sự xuất
hiện của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau đã làm cho các quan hệ
kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Dưới tác động của các quy luật trong cơ
chế thị trường, lợi nhuận không những là động lực, là một trong những thước đo hiệu
quả hoạt động kinh doanh mà còn là mục đích, là phương tiện tồn tại của các chủ thể
kinh doanh.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua được diễn
ra trong bối cảnh phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với
một tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định nó là một bộ phận
không thể thiếu của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung trong kinh
doanh nói riêng là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, nó cũng trở nên phong
phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Bởi vây, yêu cầu
phải áp dụng các hình thức và cách giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả
là một đồi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh
tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi trường pháp lý
lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển các quan hệ kinh tế - xã hội và do ảnh hưởng
của những đặc điểm về phong tục, tập quán, cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh được pháp luật mỗi quốc gia quy định không giống nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ
đặc trưng chung của hoạt động kinh doanh và nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, cho tới
thời điểm hiện tại, các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu áp dụng rộng rãi trên thế
giới bao gồm thương lượng, hòa giải, Trọng tài và giải quyết thông qua Tòa án.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, phần lớn các tranh chấp thương mại, đầu tư trên thế
giới được giải quyết theo con đường Trọng tài nếu các bên thương lượng hay hòa giải
không thành. Điều này xuất phát từ những ưu việt của Trọng tài so với Tòa án: nhanh
chóng, mềm dẻo, ít tốn kém, bảo đảm uy tín và bảo đảm bí mật trong kinh doanh.
Tuy nhiên, để Trọng tài phát huy các mặt lợi đó, vừa bảo đảm cho các quyết định
mà Trọng tài đưa ra đáp ứng các yêu cầu của pháp luật và được công nhận và cho thi
hành thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về Trọng tài trong nhu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế là một vấn đề cần thiết và cấp bách.
Từ những lý do trên và thấy được việc cần hoàn thiện pháp luật công nhận
và thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam hiện nay mà người viết
chọn đề tài “Quy định về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại
Việt Nam” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá đúng thực trạng của vấn đề công nhận và thi
hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, làm rõ những hạn chế, bất cập
trọng việc công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài tại Việt Nam. Từ đó người
viết tìm ra những hướng khắc phục, để quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt
Nam ngày càng được áp dụng nhiều hơn. Đề tài xác định các yêu cầu đặt ra đối với việc
công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, giúp người
đọc nói chung và các doanh nghiệp nói riêng hiểu rõ những quy định của pháp luật về
Trọng tài, qua đó thấy được những ưu điểm và hạn chế về cách giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài, từ đó để người đọc thấy được những hạn chế về pháp luật cũng
như thực tiễn về vấn đề công nhận và cho thi hành những quyết định của Trọng tài
thương mại tại Việt Nam và những hướng khắc phục nhằm hoàn thiện hơn.
Đề tài được nghiên cứu một cách sâu rộng về vấn đề công nhận cũng như thi
hành quyết định vủa Trọng tài thương mại tại Việt Nam. Để hoàn thành được đề tài
người viết đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp vấn đề, so sánh các quy
định của pháp luật với nhau để giải quyết vấn đề của đề tài.
Do thời gian có hạn cũng như những hạn chế về việc thu thập tài liệu và khả
năng có hạn của người viết nên đề tài chủ yếu nghiên cứu các vấn đề: Lý luận về vấn đề
công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài; các quy định của pháp luạt về công
nhận cũng như thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam; thực tiễn
của việc thi hành quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam và thực tiễn của việc
công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương mại nước ngoài tại việt Nam.
Nội dung của đề tài gồm: lời nói đầu, chương 1, chương 2, chương 3, kết luận.
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về Trọng tài.
Chương 2. Vấn đề công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt
Nam hiện nay.
Chương 3. Thực tiễn về vấn đề công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương
mại tại Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
“Trong quá trình làm đề tài người viết đã nổ lực rất lớn nhưng do thời gian có hạn cùng
những hạn chế trong việc tiếp cận tài liệu cùng nhiều nguyên nhân khác nhau. Nên đề
tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô và các bạn đọc đóng
góp ý kiến để đề tài ngày càng được hoàn thiện hợn. Đề tài hoàn thành là do sự hướng
dẫn tận tình của thầy Trương Thanh Hùng, xin chân thành Thank thầy đã chỉ dẫn em
hoàn thành đề tài nay”.
Xin chân thành cảm ơn!
































CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNH TÀI
1.1 Khái quát chung về Trọng tài
1.1.1 Khái niệm Trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là biện pháp giải quyết tranh chấp được các
nhà kinh doanh rất ưa chuộng. Đây “là sản phẩm” tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tự
do kinh doanh, tự do kí kết hợp đồng trong khuôn khổ pháp luật đương nhiên bao gồm
cả tự do thỏa thuận lựa chọn các biện pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh1
.
Vậy Trọng tài là gì? Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà
Nội năm 1999 Trọng tài được coi là: Người được các bên đối lâp, tư nhân, thương
gia…, công nhận là có thẩm quyền xử một vụ tranh chấp; là người được cử ra để điều
khiển thể thao trong khuôn khổ điều lệ của bộ môn và công nhận các kết quả cuối cùng.
Ở những nước có nền kinh tế thị trường thì Trọng tài được định nghĩa. Là cơ quan
xét xử do các bên thiết lập ra trên cơ sở thỏa thuận và trong lĩnh vực mà pháp luật quy
định để giải quyết các tranh chấp giữa chính các bên đương sự.
Như vậy, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, dựa trên sự thỏa thuận
giữa các bên đối lập, ủy thác cho một hay một số người làm trung gian giải quyết sự
xung đột trên cơ sở công bằng và khách quan.
1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài
Trọng tài là một biện pháp lựa chọn rất phổ biến để giải quyết các tranh chấp
trong nền kinh tế hiện nay ở trên thế giới cũng như Việt Nam. Ở những nước khác nhau
có những đặc điểm kinh tế xã hội và tập quán pháp luật khác nhau, do đó việc tổ chức
Trọng tài cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù được tổ chức với nhiều hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng nhìn chung Trọng tài có những điểm chung sau đây:
Thứ nhất, Trọng tài là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động mang tính nghề
nghiệp. Nó không nằm trong bộ máy nhà nước chính vì thế Trọng tài không mang tính
quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, các tổ chức Trọng tài thường được lập trên sự sáng kiến và sự tự
nguyện của Trọng tài viên. Các Trọng tài viên khi có đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật, trên cơ sở tự nguyện họ tham gia thành lập một tổ chức Trọng tài.
Hoạt động của tổ chức Trọng tài dựa trên cơ sở sự cân đối thu chi, áp dụng nguyên tắc
tự do hoạch toán, dựa trên uy tín là chủ yếu.

1
Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quồc tế, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội - 2001
Thứ ba, tuy là một tổ chức phi Chính phủ nhưng hoạt động của Trọng tài đều có
sự quản lý của Nhà nước. Có nghĩa là, Trong quá trình giải quyết tranh chấp của mình
Trọng tài cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước mà cụ thể là sự hỗ trợ từ phía Tòa
án để Trọng tài có thể thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp của mình một cách tốt
nhất. Ngoài ra, một trong những nội dung quan trọng trong việc quản lý của Nhà nước
đối với hoạt động của Trọng tài là việc phê chuẩn điều lệ tổ chức hoạt động của Trọng
tài cũng như quy định về tiêu chuẩn của Trọng tài viên.
Thứ tư, các Trọng tài viên chủ yếu là các luật gia và các thương gia. Có thể nói
ngoài bộ phận chủ yếu là các luật gia thì thành phần thương gia là cơ sở cho việc thi
hành và hoạt động của tổ chức Trọng tài. Nhiều tổ chức Trọng tài trên thế giới được
thành lập là dựa trên sáng kiến là các thương gia.
1.1.3 Vai trò của Trọng tài
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp trong sản xuất, kinh doanh cho thấy các nhà sản
xuất kinh doanh dù hoạt động trong phạm vi quốc gia hay trên phạm vi quốc tế đều
mong muốn ngăn chặn phát sinh các tranh chấp; nếu tranh chấp xảy ra thì mong muốn
hòa giải với nhau, nếu không hòa giải được với nhau thì tránh việc đưa tranh chấp ra
Tòa án mà thỏa thuận giải quyết tranh bằng Trọng tài
2
. Trong quá trình phát triển kinh
tế hiện nay cùng với xu hướng toàn cầu hóa thương mại, Trọng tài đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển kinh tế nói chung và thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế nói
riêng. Vai trò của Trọng tài cụ thể là:
Trong môi trường kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận cao, cùng với sự đòi hỏi bí mật trong kinh doanh, cũng như sự nhanh chóng khi
giải quyết tranh chấp mà Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu mà họ
lựa chọn.
Bên cạnh đó thì một vai trò không kém phần quan trọng nữa của Trọng tài chính là
việc giảm gánh nặng cho Tòa kinh tế. Việc ra đời của các tổ chức Trọng tài cũng chính
là tạo cơ chế thi đua giữa Tòa kinh tế và Trọng tài trong sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần cũng như đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh
ngày càng tăng cao.
Đảm bảo cho các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh mà cụ thể ở
đây là quyền tự do lựa chọn Cơ quan tài phán. Ngoài ra, việc hoàn thiện pháp luật
Trọng tài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn trong
quá trình quốc tế hóa của nhiều nước trên thế giới.

2
Đoàn Năng: Một số ý kiến về thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật Trọng tài kinh tế ở nước ta hiện
nay. Tạp chí luật học, Số1, 1998.
Để cũng cố cũng như phát triển mối quan hệ thương mại quốc tế bền vững thì
Trọng tài đóng vai trò quan trọng và to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp. Trọng tài ngày càng thể hiện ưu thế của mình trong môi trường
toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay.
Trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp rất ưa chuộng đối với các nhà sản
xuất, kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, Trọng tài góp phần giải
quyết tranh chấp nhanh gọn và hiệu quả nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh
trong từng nước và trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta, việc mở rộng khả năng, cơ hội cho
các nhà sản xuất, kinh doanh sử dụng Trọng tài để giải quyết tranh chấp sẽ góp phần
thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận
lợi thu hút đầu tư nước ngoài đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội
3
.
1.2 Sự hình thành và phát triển của Trọng tài
So với lịch sử hình thành Trọng tài thương mại ở một số nước trên thế giới, thì
Trọng tài thương mại ở Việt Nam là rất non trẻ. Do những điều kiện như: điều kiện về
kinh tế, chính trị xã hội đặc thù của Nhà nước và pháp luật Việt Nam mà Trọng tài
thương mại Việt Nam được thành lập khá muộn. lịch sử phát triển của Trọng tài Việt
Nam, cùng lúc với sự hình thành của cơ chế hợp đồng kinh tế. Có hai giai đoạn phát
triển của Trọng tài: giai đoạn Trọng tài kinh tế nhà nước (từ năm 1960 đến năm 1990),
giai đoạn của Trọng tài phi Chính phủ (từ năm 1994 trở đi).
Lần đầu tiên một tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế với tên gọi Trọng tài được
hình thành theo tinh thần của Nghị định số 04-TTG ngày 01/04/1960 của Thủ Tướng
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nghị định này quy định tạm thời về quy chế hợp
đồng kinh tế. Một Nghị định khác được ban hành vào ngày 14/01/1960 đưa ra quy định
tạm thời về nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế. Theo tinh thần của Nghị
định này, các Hội đồng Trọng tài được được thành lâp ở cấp tỉnh và cấp bộ. Mỗi Hội
đồng Trọng tài trực thuộc cơ quan hành chính cùng cấp. Thành viên của Hội đồng
Trọng tài đồng thời cũng giữ một số chức vụ chính quyền cấp đó. Nhìn chung các Hội
đồng Trọng tài được thành lập xuất phát từ nhu cầu quản lý một nền kinh tế kế hoạch
nói chung và cơ chế hợp đồng kinh tế nói riêng.
Như vậy, chức năng chính của Hội đồng Trọng tài là giải quyết tranh chấp kinh
tế phát sinh từ hoạt động của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước theo
yêu cầu của các bên tranh chấp. Ngoài ra, ở giai đoạn này Hội đồng Trọng tài còn có
thẩm quyền ra các quyết định yêu cầu các cơ quan tiến hành ngay các biện pháp để

3
Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001.
giảm thiệt hại gay ra cho kế hoạch Nhà nước, trong các trường hợp không kí hợp đồng
kinh tế, không thi hành hợp đồng kinh tế, và vi phạm hợp đồng kinh tế đã kí.
Ở giai đoạn đầu, các Hội đồng Trọng tài hoạt động với tư cách là cơ quan lâm
thời, theo quy chế tạm thời của nó. Về sau, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của cơ
chế hợp đồng kinh tế được coi là hòn đá tảng của nền kinh tế hàng hóa, tổ chức và thủ
tục của Hội đồng Trọng tài cũng được từng bước phát triển và hoàn thiện4
.
Nghi định số 29-CP ngày 23/2/1962 của Chính phủ đã quy định các nguyên tắc
và thủ tục chính thức của Hội đồng Trọng tài. Năm 1965, các Hội đồng Trọng tài được
thay thế bằng các Hội đồng Trọng tài kinh tế ở các cấp cụ thể là: Hội đồng Trọng tài
kinh tế Nhà nước ở cấp Trung ương, Hội đồng Trọng tài kinh tế cấp bộ và Hội đồng
Trọng tài kinh tế cấp tỉnh. Đến giai đoạn này thì thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài
được mở rộng. Ngoài thẩm quyền riêng giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế phát
sinh trong phạm vi của mình, Hội đồng Trọng tài kinh tế còn có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh giữa các đơn vị kinh tế nhà nước Trung ương đóng trên địa bàn
mà mình phụ trách.
Nghị định 75-CP ngày 14/4/1975 quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng
Trọng tài kinh tế nhà nước. Quy định đó thể hiện rõ ràng rằng Hội đồng Trọng tài kinh
tế Nhà nước có trách nhiêm giúp Hội đồng Chính phủ trong công tác quản lý hợp đồng
kinh tế và giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế phát sinh giữa các doanh nghiệp nhà
nước. Tiếp đó Nghị định số 62/HĐBT ngày 14/4/1984 được ban hành quyết định ngạch
Trọng tài viên.
Cuối cùng trong quá trình phát triển của Trọng tài kinh tế nhà nước ở Việt Nam
là việc thành lập Cơ quan Trọng tài kinh tế nhà nước theo Pháp lệnh Trọng tài kinh tế
ban hành ngày 10/01/1990. Theo pháp lệnh này, Trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan
nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, ngoài ra kiêm luôn trách
nhiệm giúp Chính phủ trong công tác quản lý hợp đồng kinh tế.
Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển nền kinh tế, tháng 7/1994 tổ chức Trọng tài này
bị giải thể, các chức năng Trọng tài kinh tế nhà nước được chuyển giao cho Tòa án kinh
tế trong hệ thống Tòa án nhân dân. Và đánh dấu một bước phát triển mới của nền kinh
tế, chuyển từ nền kinh tế tập trung, mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường, sự ra đời của
Trọng tài phi Chính phủ theo Nghị định 116/CP ngày 05/9/1994 là một thực tế chứng
minh. Theo Nghị định này các Trung tâm Trọng tài kinh tế được tổ chức dưới hình thức
là một tổ chức xã hội nghề nghiệp (tổ chức phi Chính phủ).

4
Dương Văn Hậu: Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà
Nội – 2005.

Đây là lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam quy định cho phép một tổ chức không phải của
Nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế theo yêu cầu và thỏa
thuận của các bên tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ và hoạt động thương
mại mà trước đây thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Tổ chức Trọng tài theo tinh
thần của Nghị định này được thành lập bởi các Trọng tài viên tư nhân, họ sẽ tự thiết lập
điều lệ và quy tắc của mình trên cơ sở tuân theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, so với sự phát triển của các tổ chức Trọng tài thế giới và quá trình
hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây, thì các trung tâm Trọng tài
kinh tế không thể đảm đương nổi việc giải quyết tranh chấp kinh tế cho nhu cầu phát
triển kinh tế của Việt Nam.
Và hiện nay cùng với sự hiện hành của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2004 và
Dự thảo Luật Trọng tài là rất cần thiết và phù hợp trong quá trình phát triển chung của
nền kinh tế Việt Nam, cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3 Ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Qua thực tiễn giải quyết tranh chấp, cách giải quyết bằng Trọng tài cho
thấy nhiều ưu thế và được các nhà kinh doanh ưa chuộng và lựa chọn để giải quyết nếu
có tranh chấp xảy ra. Qua thực tiễn cho thấy các ưu thế của việc giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài với các ưu điểm sau:
Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, không có nhiều công đoạn
tố tụng, nhanh gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên có liên
quan.
Nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin
cậy trong quan hệ thương mại. Điều có có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện cạnh tranh.
Các bên đương sự được lựa chọn Trọng tài viên. Cách thức lựa chọn Trọng tài và
Hội đồng Trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng.
Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng Trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi
hành, nên các bên đương sự nào không đồng ý phán quyết của Trọng tài thì có thể kiện
ra Tòa kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ việc.
Quyết định giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại phải được các bên
thi hành nhanh chóng.
Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài là một tổ chức phi
Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của Tòa án.
Vì những ưu điểm đó nên trong thời gian gần đây thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng
dần dần chọn phương án giải quyết bằng Trọng tài khi có tranh chấp xảy ra.
1.4 Vấn đề giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện hành
1.4.1 Thẩm quyền của Trọng tài
Ở nhiều nước trên thế giới, Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp
phát sinh từ những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và thỏa thuận
giữa các bên. Các tranh chấp này có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng, quan hệ đầu tư,
quan hệ sở hữu… giữa các nhà kinh doanh với nhau; giữa các nhà kinh doanh với tổ
chức, các nhân có liên quan hay giữa các tổ chức, cá nhân ( không phải là nhà kinh
doanh) với nhau.
Khi quy định về thẩm quyền của Trọng tài, pháp luật các quốc gia này không sử
dụng phương pháp liệt kê những loại tranh chấp có thể giải quyết bằng Trọng tài mà
thường sử dụng phương pháp loại trừ. Tức là quy định những vụ việc không thể giải
quyết bằng Trọng tài, còn những loại vụ việc khác có thể được các bên tranh chấp thỏa
thuận để đưa ra Trọng tài giải quyết.
Ví dụ: Luật Trọng tài của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hay quyền sở hữu giữa các công dân, pháp nhân hay
tổ chức khác trên cơ sở bình đẳng có thể giải quyết bằng Trọng tài”
(Điều 2) “các tranh chấp sau đây không được giải quyết bằng Trọng tài; tranh chấp liên
quan đến hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ và thừa kế: tranh chấp hành chính phải
được giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền về hành chính theo quy định của pháp luật”
(Điều 3).
Nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của Trọng tài khá hẹp so với nhiều nước trên thế giới. Với tên gọi “Trọng tài thương
mại’’, Trọng tài Việt Nam chỉ có quyền giải quyết các tranh chấp được xem là tranh
chấp thương mại mà thôi. Theo quy định của pháp luật: “Thỏa thuận Trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng Trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh
hay đã phát sinh trong hoạt động thương mại”
5
. Còn hoạt động thương mại là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại lý thương mại; kí gửi; thuê; cho thuê;
xây dựng; tư vấn; kĩ thuật và các hành vi theo quy định của pháp luật
6
. Còn theo Điều 2
Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Pháp lệnh Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

5
Theo khoản 2 Điều 3 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.

36
Dddn.com.VN/2008102209144953 cat103/thi hanh an dan su can-qyu- ve-mot-moi.htm
chứng tư hoạt động rất hiệu quả, đáp ứng được về mặc thời gian nhanh, gọn và đã gớp
phần giảm bớt gánh nặng cho các Phòng công chứng của Nhà nước. Từ những phân
tích trên thì người viết kiến nghị chúng ta có thể thành lập tổ chức thi hành án tư sẽ đáp
ứng được nhu cầu thi hành án hiện nay. Một số vướng mắc trong công tác thi hành án.
Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng án dân sự tồn đọng hiện nay. Ngoài những nguyên nhân khách quan thì cũng
có những nguyên nhân chủ quan từ chính các cán bộ thi hành án như: Chậm ra quyết
định thi hành án; chưa kịp thời xác minh điều kiện thi hành án hay không kiên quyết
áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành án có điều kiện thi hành; có
trường hợp Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong tác nghiệp thi hành án còn cẩu thả,
tuỳ tiện dẫn đến sai phạm; thậm chí có trường hợp thoái hoá, biến chất, tham nhũng,
tiêu cực, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân... Trong thời gian qua, một số Cơ quan thi
hành án đã để xảy ra tình trạng Chấp hành viên, cán bộ thi hành án vi phạm pháp luật,
vi phạm kỷ luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức của ngành bị xử lý kỷ luật với hình thức
cảnh cáo, khiển trách, cách chức, buộc thôi việc (năm 2005 xử lý kỷ luật: 25 trường
hợp, năm 2006: 30, năm 2007: 36, năm 2008: 30 trường hợp) hay có trường hợp Chấp
hành viên, cán bộ thi hành án vi phạm pháp luật bị xử lý hình sự.
37

Đối với các trường hợp có hành vi tiêu cực, vi phạm quy tắc đạo đức Chấp hành
viên, Bộ Tư pháp chỉ đạo các Cơ quan thi hành án dân sự kiên quyết xử lý nghiêm
những trường hợp án có điều kiện nhưng chậm tổ chức thi hành hay có biểu hiện
nhũng nhiễu, kéo dài do lỗi của Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Bộ Tư pháp, các
Cơ quan thi hành án đã thiết lập và duy trì đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, phát
hiện, xử lý, thông báo công khai những sai phạm, tiêu cực trong hoạt động thi hành án.
Một bộ phận cán bộ, công chức trình độ chuyên môn còn yếu kém không đáp
ứng được yêu cầu cũng như nhiệm vụ của mình. Cần tiếp tục đổi mới nội dung phương
pháp đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ
tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật,
kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức
trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phẩm
chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Chấp hành viên, công
chức thi hành là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động của
công tác thi hành án dân sự.

37
htt://www.Cand.com.vn/VI-VN/pháp luật 2009/3/110640 Cand
Bên cạnh đó thì một số cán bộ, công chức chưa thực sự tích cực trong những
trường hợp khó khăn, phức tạp ngại va chạm, hơn nữa có một số cán bộ của ngành liên
quan tiếp tay cho người phải thi hành án. Phải luôn sẵn sàng ứng phó với thái độ bất
hợp tác của người phải thi hành án, các chấp hành viên cũng rất mệt mỏi khi vấp phải
sự thiếu thiện chí của các cơ quan liên quan.
Do bên phải thi hành án không chịu thi hành án, mặc dù quyết định của bản án là
đúng pháp luật và đương sự có khả năng thi hành án. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận
thức pháp luật của đương sự không cao, họ nêu lý do việc xét xử của Tòa án là không
đúng nên còn đang khiếu nại để không chịu thi hành án, có trường hợp Tòa Dân sự Tòa
án nhân dân tối cao đã có công văn trả lời khiếu nại của họ, nhưng họ vẫn tiếp tục khiếu
nại và cố tình tìm mọi cách để không chịu thi hành án, Cơ quan thi hành án báo nhưng
không đến để thi hành án, có trường hợp chống lại việc thi hành án. Có một số cơ quan,
đoàn thể nhận đơn khiếu nại, thậm chí đơn kêu cứu khẩn cấp của đương sự lại hiểu
nhầm là việc xét xử của Tòa án là không đúng, gây oan sai cho đương sự nên đã có ý
kiến can thiệp việc thi hành án. Có những vụ án chính quyền địa phương không ủng hộ
việc thi hành án, hay gây khó khăn cho việc thi hành án mặc dù việc xét xử của Tòa án
là đúng pháp luật.
Ví dụ: Phát hiện người phải thi hành án có tiền trong tài khoản ngân hàng,
nhưng khi cán bộ thi hành án đến xác minh để phong tỏa tài khoản thì bị khất, hẹn, đến
khi trở lại thì tiền đã được đương sự rút ra. Có khi chấp hành viên đang làm việc với
lãnh đạo phòng giao dịch ở tầng trên thì ở tầng dưới người phải thi hành án đã kịp đến
rút tiền.
Có những quy định của Bộ luật dân sự chưa hợp lý, chưa rõ ràng, chưa phù hợp
với cuộc sống nên sau khi xét xử việc tổ chức thi hành án gặp nhiều khó khăn như: khi
áp dụng quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu mà đặc biệt là với hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất bị vô hiệu, việc tính thiệt hại như thế nào cho thỏa đáng thì trong Bộ luật
dân sự không quy định rõ (cách tính thiệt hại), nên trên thực tế xét xử Tòa án đã buộc
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn lại cho nhau những gì đã nhận: người
bán trả lại tiền cho người mua, người mua trả lại nhà (đất) cho người bán. Có trường
hợp Tòa án chỉ buộc người bán trả lại nguyên số tiền đã nhận, có trường hợp Tòa án lại
tính lãi suất khoản tiền này theo lãi suất tiền gửi cho Ngân hàng Nhà nước quy định.
Nhưng dù tính như thế nào thì so với trượt giá nhà, đất, bên mua phải nhận lại tiền cũng
bị rất thiệt, có trường hợp chênh lệch hàng trăm triệu đồng nên khi thi hành án người
dân không chấp nhận, tiếp tục có đơn khiếu nại hay có phản ứng quyết liệt.
Có trường hợp khi giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng, Tòa án cấp sơ thẩm
và cấp phúc thẩm tuyên khác nhau nên dẫn đến việc khó hiểu cho đương sự và chính
Cơ quan thi hành án. Chẳng hạn như Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bên A phải trả cho bên
B số tiền 200.000.000 đồng giá trị hợp đồng xây dựng, nhưng cấp phúc thẩm lại tuyên
bác yêu cầu của B đòi A trả 150.000.000 đồng. Bên B yêu cầu thi hành án với lý do Tòa
án cấp phúc thẩm chỉ bác yêu cầu của B đòi A 150.000.000 đồng, B yêu cầu thi hành án
phần chênh lệch 50.000.000 đồng so với án sơ thẩm. Thực chất vụ án này là Tòa án cấp
phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của B đòi A trả 150.000.000 đồng (B khởi kiện đòi A
150.000.000 đồng), khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi thành 200.000.000 đồng,
nên việc Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu của B là bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Chính vì sự tuyên không rõ ràng này dẫn đến việc hiểu lầm quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm, nên đương sự khiếu nại, cơ quan thi hành án cũng
khó hiểu quyết định của Tòa án.
Bên cạnh đó thì hiện nay số lượng bản án phải thi hành còn tồn đọng rất nhiều.
Năm 2005 có 327.658 vụ việc tồn đọng - chiếm 58.38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc
- chiếm 54.99%; năm 2007 có 311.443 vụ việc - chiếm 48.04%. Nguyên nhân, theo nội
dung Tờ trình của Chính phủ về xây dựng Luật Thi hành án, là do những hạn chế, bất
cập, nhất là trong quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ
quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án. Bên cạnh đó còn do bản án tuyên không
rõ, không khả thi; người phải thi hành án không có điều kiện thi hành, không có địa chỉ
rõ ràng; do tạm đình chỉ, hoãn thi hành án và đang chờ giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan có thẩm quyền...
Để tháo gỡ những khó khăn hiện nay thì Dự thảo Luật thi hành án dân sự sắp có
hiệu lực sẽ giải quyết được những khó khăn trên, Điều 1438
. Xã hội hoá hoạt động thi
hành án.

38
Điều 14 Dự thảo Luật thi hành án dân sự
1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thực hiện việc xã hội hoá trong hoạt động thi hành
2. Cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì được cấp giấy phép hành nghề thi hành án.
Người được cấp giấy phép hành nghề được thành lập hay tham gia tổ chức hành nghề thi hành án để tổ
chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự hay thực hiện một số công việc thi hành án theo uỷ quyền của Chấp
hành viên, Cơ quan thi hành án.
Thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực thi hành án, nó sẽ giảm được những gánh
nặng công việc thi hành án cho Nhà nước, đồng thời sẽ năng cao hiệu quả của công tác
thi hành án. Theo kiến nghị của bản thân, trước mắt chúng ta chỉ thí điểm tại một số địa
phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn mới tiếp tục áp dụng trên
phạm vi cả nước.












KẾT LUẬN
Có thể nói nền kinh tế của nước ta trong những năm gần đây đã phát triển vượt
bậc, hàng năm trong cả nước có khoảng một ngàn doanh nghiệp lớn nhỏ xin thành lập.
Bên canh đó cùng với việc Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và việc mở rộng quan hệ đối ngoại với mục tiêu hội nhập kinh tế
quốc tế, tất nhiên, sẽ không tránh khỏi những tranh chấp với nhau. Trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ của Việt Nam hiện nay cùng với việc hội nhập
WTO, sẽ đồi hỏi những điều kiện hết sức khắt khe. Như vậy việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài thương
mại tại Việt Nam là vấn đề cần thiết.

Để có được sự ổn định và phát triển của xã hội thì trước tiên phải có một nền kinh tế ổn
định .Việc các doanh nghiệp cần có ý thức và tuân thủ pháp luật là nguồn để có

3. Khi thực hiện việc thi hành án, người được cấp giấy phép hành nghề thi hành án có nghĩa vụ như Chấp
hành viên và có một số quyền hạn của Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Trường hợp cần áp dụng biện
pháp cưỡng chế để thi hành án thì phải có quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi thi hành án.

được nền kinh tế nói trên. Chính vì vậy việc nâng cao vai trò lãnh đạo của nhà nước đối
với các doanh nghiệp là cần thiết, giúp cho các doanh nghiệp tránh bớt những rủi ro,
những tranh chấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường pháp
lý ổn định an toàn.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài
thương mại tại Việt Nam hiện nay góp phần tạo nên niềm tin sự an tâm giúp các nhà
kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp nói riêng tìm đến với Trọng tài như một
cách giải quyết tranh chấp tối ưu nhất nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của doanh
nghiệp. Hoàn thiện hệ thống thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam
hiện nay là cần thiết đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc thi hành án một quyết định của Trọng tài hiện nay còn gặp rất nhiều khó
khăn, muốn thi hành phải qua một giai đoạn, trình tự, thủ tục nhất định . Cùng với sự
yếu kém về trình độ chuyên môn hay một yếu tố chủ quan khác của Chấp hành viên hay
cán bộ trong Cơ quan thi hành án. Như thiếu tinh thần trách nhiệm, không cương quyết
đấu tranh trong mọi trường hợp của một số cá nhân trong cơ quan. Cùng với sự bất cập
một số vấn đề quy định của pháp luật làm cho công tác thi hành án các quyết định của
Trọng tài còn gặp nhiều khó khăn như: bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp
lực như bản án, quyết định dân sự của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và
được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Bản án quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài không được Tòa án Việt Nam công nhận thì không có hiệu lực pháp luật tại
Việt Nam. Quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như quyết định của Tòa án Việt Nam đã
có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
Tuy nhiên những điều luật nói trên chỉ quy định trong Pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 mà không quy định trong
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Thế nên, Cơ quan thi hành án hoàn toàn có thể
viện dẫn vào Pháp lệnh thi hành án dân sự để không thi hành các quyết định của Trọng
tài. Và như vậy, các nhà doanh nghiệp tìm đến Tòa án mà không chọn con đường Trọng
tài để giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra. Chính vì sự bất cập đó mà Luật thi hành án
dân sự ra đời, đã sửa đổi, thay thế những điểm bất cập của Pháp lệnh (Điều 3 của Luật
thi hành án dân sự đã bổ sung những quyết định thi hành. Trong đó có quyết định của
Trọng tài thương mại Việt Nam có hiệu lực thi hành) cùng với sự ra đời của Luật
thi hành án thì Luật Trọng tài cũng được ban hành, sẽ tránh đi được những khó khăn
nói trên. Với sự nổ lực của Chính phủ và các Cơ quan thi hành án hiện nay thì những
vấn đề khó khăn, bất cập nói trên dần sẽ được khắc phục, tạo được niềm tin cũng như
sự yên tâm cho doanh nghiệp nói riêng và nhân dân nói chung đúng như chủ trương của
Đảng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân./.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top