tonmackim

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Lời mở đầu

Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến nay đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987.
Xét riêng về kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đều được khuyến khích phát triển không hạn chế; thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu, thứ ba, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm cùng kiệt và giải quyết công ăn việc làm là 2 ưu tiên trọng tâm; thứ tư, cùng với đổi mới kinh tế đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
I. Một số vấn đề về quan điểm toàn diện
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác nhau (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm…) tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tượng khác. Đó là tính khách quan của mối liên hệ.
Ngoài ra, mối liên hệ vốn có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nàykhông có một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham gia tích cực vào các tổ chức như ASEAN, hay sắp tưói đây là WTO cũng không ngoài mục đích là quan hệ, liên hệ, giao lưu với nhiều nước trên thế giới.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực. Đó chính là quan điểm toàn diện.
Vì bất cứ sự vật nào, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật hiện tượng ta phải xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó với sự vật khác hay nói cách khác chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng.
2. Nội dung của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện không chỉ đòi hỏi chúng ta nắm bắt những cái hiện đạng tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh từ mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người có nhận thức sâu sắc, toàn diện về sự vật và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến diện về sự vật và hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật chung của chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả coa nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện xác định.
II. Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới
Sau khi đất nước được giải phóng (năm 1976) và đất nước thống nhất năm (1976). Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng vưói sức lao động và vốn đầu tư bỏ
+ Kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình thức khác nhau đã tăng lên nhanh chóng: từ 132 doanh nghiệp năm 1991 tăng lên 42393 doanh nghiệp vào cuối năm 1999. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành luật doanh nghiệp 1/1/2000, thì khu vực kinh tế tư nhân tăng lên rất nhanh.
+ Kinh tế cá thể và tiểu chủ cũng rất phổ biến, tính đến năm 1995 có gần 2 triệu hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ và hơn 3 triệu hộ gia đình nông dân cá thể.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc tận dụng nguồn vốn và lao động, tự tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này vẫn còn đang có trạng thái phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó.
3.3. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát
Trong những năm 1986-1988 lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Từ năm 1989, lạm phát được chậm lại ở mức 2 con số sau đó giảm xuống 1 con số. Năm 1986: 774,7%; năm 1990: 67,4%; năm 1995: 12,7%; năm 1997: 3,7%; năm 1999: 0,1%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
3.4. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh
Quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta ngày càng được mở rộng. Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận, ngày 11/7/1995, Mỹ tuyên bố bình thường hoá uan hệ và ngày 12/7/1994 đã thiết lập quan hệ kinh tế với Việt Nam. Và từ đó đến nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với 150 nước và vùng lãnh thổ vào năm 2000.
Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc. Năm 2001, Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 15,027 tỷ USD, nhập khẩu là 16,162 tỷ USD so với 822,9 triệu USD và gần 221,6 tỷ USD năm 1986. Kim ngạch XNK tăng bình quân hàng năm trên 20%. Sở dĩ kim ngạch XNK tăng nhanh như vậy là do nước ta thực hiện chính sách mở cửa, có những cơ chế xuất nhập khẩu đổi mới và có chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt.
Nhập siêu giảm 3,8 tỷ USD năm 1996 còn 900 triệu USD năm 2000 và 1,135 tỷ USD. Ta đã có một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, than đá, gạo, dệt may, giày dép, thuỷ sản, cao su, cà phê với số lượng lớn và chất lượng ngày càng tăng. Sản xuất hướng về xuất khẩu là một nét mới gắn với đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế Việt Nam, làm cho các ngnàh sản xuất thoát ra khỏi tình trạng tự cấp tự túc, tăng dần tích luỹ.
3.5. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần đã được cải thiện một bước rõ rệt. Số lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng nhanh, trong những năm 1995-2000 trung bình đã tạo ra 1,3 triệu việc làm mới. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới. GDP bình quân đầu người đạt gần 400USD/năm (năm 2000) và đến năm 2005 là gần 650USD/năm. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ cùng kiệt giảm xuống từ 55% (năm 1989) xuống còn 11,4% năm 2000.
Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân cũng được tăng lên đáng kể. Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân đã tăng 0,464 năm 1992 lên 0,761 năm 2000, xếp thứ 108 trong số 174 nước được xếphạng, tăng 2 bậc so với năm 1999.

Kết luận

Những thành tựu sau 20 năm đổi mới đã phần nào cho thấy đường lối của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế.
- Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bị xoá bỏ, tuy nhiên cơ chế mới vẫn chưa hoàn toàn ưu việt, vẫn có sự quan liêu và đặc biệt là nạn tham nhũng xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Nó gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước. Vì thế trong giai đoạn mới, chúng ta cần cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong cơ chế quản lý.
- Giai đoạn tới là giai đoạn của nền kinh tế tri thức, tuy nhiên đội ngũ cán bộ của chúng ta còn nhiều yếu kém, nhiều người có trình độ không cao nhưng lại giữ những chức vụ quan trọng, vì vậy khi tiếp cận nền kinh tế tri thức sẽ gây ra rất nhiều khó khăn. Công tác đào tạo đội ngũ tri thức trẻ có năng lực cao là điều rất quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở nước ta. Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến công tác này.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Tags: tiểu luận Quan điểm đối ngoại hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam và những thành tựu của nó trong giai đoạn từ 1991 đến nay., từ quan điểm toàn diện liên hệ kinh tế việt nam hiện nay, Đề 2: Nội dung và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện; liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay., quan điểm toàn diện đổi mới nền kinh tế việt nam, Xã hội ngày càng đổi mới, mọi quan điểm chính trị đều dần được thay đổi trong đó có quan điểm đối ngoại với các nước. Đối ngoại là hoạt động diễn ra từ thuở cha ông ta dựng nước, giữ nước. Đến thời kì hiện đại như ngày nay thì các quan điểm về đối ngoại có đôi phần khác xưa. Đối ngoại hiện nay mang tính xây dựng dân chủ tiến bộ. Đây là sự thay đổi có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay. Mọi công dân và thế hệ trẻ cần phải hiểu được tầm quan trọng của đối ngoại. Và hơn nữa, vấn đề nay rất phù hợp với môn học mà em đang tiếp cận, phù hợp với nhận thức của mỗi người. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ vấn đề em xin tìm hiểu nội dung mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam., các hiện tượng kinh tế việt nam hiện nay, vận dụng quan điểm toàn diện trong phát triển kinh tế xã hội ở địa phương,  Đổi mới kinh tế Việt Nam hiện nay, Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay, phân tích đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay
Last edited by a moderator:

minh0604

New Member

Download Tiểu luận Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay miễn phí





Công nghiệp hoá là cơ sở để củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
Đặc điểm của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiệnd dại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước , mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau ở nước ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hiện tượng từ nhiều khía cạnh từ mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người có nhận thức sâu sắc, toàn diện về sự vật và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến diện về sự vật và hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật chung của chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả coa nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện xác định.
II. Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới
Sau khi đất nước được giải phóng (năm 1976) và đất nước thống nhất năm (1976). Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
ã Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).
ã Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
ã Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng vưói sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên nogài ngày càng lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương thực phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 - 1980. Năm 1985 nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup - USD cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản xuất ngày càng sâu.
ã Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định. Ngân sách Nhà nước liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%, 1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
Trước tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xướng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới.
2. Nội dung của đổi mới
Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản về vấn đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
2.1.Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, gồm 3 cơ sở chính:
ã Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
ã Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
ã Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vĩ mô nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra tra đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Mặt khác xây dựng kinh tế thị trường còn nhiều tác dụng to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
+ Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH mang nặng tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để giảm chi phí nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Kinh tế hàng hoá kích thích chức năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. Sự phát triển của kinh tế chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng và lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
+ Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng vào nhu cầu phát triển của đất nước.
Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Vận dụng quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay Luận văn Sư phạm 0
T Phát triển con người toàn diện Từ học thuyết Mác đến tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Môn đại cương 0
N Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân trong tình hình hiện na Văn hóa, Xã hội 0
L Vận dụng quan điểm toàn diện vào việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn Kinh tế 2
K [Free] Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Luận văn Kinh tế 0
H [Free] Lý luận về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện và việc xây dựng nền kinh Luận văn Kinh tế 0
V Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác Lênin để phân tích xây dựng nền kinh tế thị trường ở Luận văn Kinh tế 2
V [Free] Vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mac-Lenin để phân tích quá trình chuyển đổi kinh Luận văn Kinh tế 0
M [Free] Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước t Luận văn Kinh tế 0
B Quan điểm toàn diện trong hoạt động quản lý quan hệ khách hàng Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top