nguoiwenttv

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Link tải miễn phí Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Báu vật của đời (Mạc Ngôn) : Luận văn ThS. Văn học : 60 22 32
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Mạc, Ngôn
Lý luận văn học
Văn học Trung Quốc
Tiểu thuyết
Miêu tả: 91 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Lý luận văn học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Tìm hiểu về hình tượng người kể chuyện và điểm nhìn nghệ thuật. Nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật qua: nghệ thuật lạ hóa; thủ pháp kì ảo và nghệ thuật phóng đại. Trình bày về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................5
1. Lý do lựa chọn đề tài .........................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................7
2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung.................................7
2.2. Nghiên cứu về “Báu vật của đời” ...............................................................9
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.....................................................10
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................10
3.2. Đối tượng nghiên cứu................................................................................10
3.3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................11
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................11
5. Cấu trúc của luận văn .....................................................................................11
NỘI DUNG ...................................................................................................................11
Chương 1: HÌNH TƯỢNG NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN NGHỆ
THUẬT.....................................................................................................................12
1.1. Vấn đề người kể chuyện ...............................................................................12
1.1.1. Khái niệm người kể chuyện....................................................................12
1.1.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết “Báu vật của đời”..........................13
1.2. Điểm nhìn nghệ thuật ...................................................................................27
1.2.1. Khái niệm điểm nhìn nghệ thuật............................................................27
1.2.2. Điểm nhìn trong tiểu thuyết “Báu vật của đời” ...................................28
Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ...........................................37
2.1. Nghệ thuật lạ hóa ..........................................................................................37
2.1.1. Khái niệm lạ hóa .....................................................................................37
2.1.2. Nghệ thuật lạ hóa trong tiểu thuyết “Báu vật của đời” ........................37
2..2. Thủ pháp kì ảo .............................................................................................40
2.2.1. Sự hiện hữu linh hồn..............................................................................40
2.2.2 Giấc mơ của nhân vật ..............................................................................42
2.2.3. Huyền thoại hóa nhân vật ......................................................................45
2.3. Nghệ thuật phóng đại ...................................................................................54
2.3.1 Phóng đại cái chết....................................................................................54
2.3.2. Phóng đại hình ảnh Bầu vú ...................................................................57
Chương 3: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT......60
3.1. Không gian nghệ thuật .................................................................................60
3.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật..........................................................60
3.1.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Báu vật của đời”................60
3.2. Thời gian nghệ thuật ....................................................................................72
3.2.1 Khái niệm thời gian nghệ thuật...............................................................72
3.2.2. Nghệ thuật thời gian trong “Báu vật của đời” ......................................73
KẾT LUẬN...................................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................905
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Văn học đương đại Trung Quốc cùng với sự đa dạng về thể loại độc đáo về
phong cách đã góp phần tạo nên diện mạo đa sắc màu của văn chương Trung Quốc.
Những thành tựu rực rỡ của văn học Trung Quốc đương đại đạt được nhờ sự góp
mặt của thế hệ các nhà văn Vương Mông, Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Phùng
Ký Tài, Lục Văn Phu, Trương Tử Long, Cao Hiểu Thanh, Hàn Thiếu Công… và
thật thiếu sót khi không nhắc đến Mạc Ngôn.
Mạc Ngôn được xem là nhà văn có bút lực phát triển nhất Trung Quốc hiện nay,
là “nhân vật khai phá của thế kỉ XXI” ở châu Á, và trở thành một “hiện tượng” của
văn học Trung Quốc và thế giới. Năm 2012, Mạc Ngôn trở thành nhà văn mang
quốc tịch Trung Quốc đầu tiên đoạt giải Nobel. Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ với
hơn 200 tác phẩm, tiểu thuyết là lĩnh vực gây tiếng vang nhất và gặt hái nhiều thành
tựu nhất.“Báu vật của đời” được coi là "viên đá nặng nhất trong lâu đài văn học"
của Mạc Ngôn. Tác phẩm được thai nghén trong suốt bốn năm, ròng rã từ năm 1990
đến tận mùa thu năm 1994. Với ý nguyện viết một cuốn sách dâng tặng mẹ, nhưng
ý nghĩa của tác phẩm đã vượt qua dự định ban đầu của nhà văn. Cuốn tiểu thuyết
dài hơn năm vạn chữ này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã dành được giải
thưởng “Văn học quần chúng” với số tiền lớn (33 vạn nhân dân tệ). Kể từ khi
“Báu vật của đời” được xuất bản thì số phận người cha đẻ ra nó luôn có sự biến
động, đã có lúc tác giả của nó phải tự phê bình và viết thư cho nhà xuất bản yêu cầu
đình chỉ in “Báu vật của đời” còn những cuốn khác thì phải tiêu huỷ. Khi được
dịch sang tiếng Việt, tác phẩm “Báu vật của đời” (nguyên văn là Phong nhũ phì
đồn) của Mạc Ngôn làm cho độc giả Việt Nam có ý kiến khác nhau.Ý kiến thứ nhất,
có thể coi là đa số cho rằng “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn là một tác phẩm tốt
có giá trị về nội dung và nghệ thuật, khái quát chân thực và sinh động một giai đoạn
lịch sử xã hội khá dài của Trung Quốc từ hiện đại đến đương đại thông qua các thế
hệ trong gia đình Thượng Quan. Ý kiến thứ hai tuy không nhiều cho rằng “Báu vật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
của đời” của Mạc Ngôn có tính "khiêu dâm", nguyên nhân trước hết là tiêu đề của
tác phẩm.
Nguyên tiêu đề của tác phẩm là Phong nhũ phì đồn, dịch ra tiếng Việt là
"Mông to vú nẩy". Tiêu đề tác phẩm quá "lộ liễu", gây cho độc giả hiểu lầm đây là
tác phẩm "nhạy cảm", miêu tả tính dục, khoái cảm xác thịt.
Ở Việt Nam, ngoài một số bài báo có tính chất giới thiệu đã có các công trình
nghiên cứu về “Báu vật của đời” nhưng mới chỉ dừng lại ở phương diện nội dung
hay một vài phương diện nghệ thuật quan trọng như yếu tố lạ hóa, kết cấu tác
phẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật “Báu vật của đời” sẽ góp thêm
vài nhận định vào lĩnh vực nghiên cứu tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung và tiểu
thuyết “Báu vật của đời” nói riêng.
Do ảnh hưởng của quan điểm tư tưởng dẫn đến các cách tiếp cận tiểu thuyết
khác nhau vì vậy xung quanh tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung cũng như “Báu
vật của đời” nói riêng có nhiều ý kiến trái ngược. Việc nghiên cứu hình thức nghệ
thuật của tiểu thuyết “Báu vật của đời” sẽ góp phần đánh giá và hiểu đúng tư
tưởng, giá trị của tác phẩm.
Cùng với so sánh văn học, tiếp nhận văn học, nghiên cứu hình thức nghệ
thuật tác phẩm theo hướng thi pháp học, tự sự học đang trở thành xu hướng chính
của lý luận văn học hiện đại. Hướng nghiên cứu này đã trả lại bản chất tự thân cho
văn học “văn học là nghệ thuật sáng tạo ngôn từ”. Do vậy, trong luận văn này,
chúng tui đã lựa chọn thi pháp học, tự sự học là hạt nhân lý luận để nghiên cứu tiểu
thuyết “Báu vật của đời”.
Tiểu thuyết của Mạc Ngôn là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Mạc
Ngôn đã kế thừa tinh hoa nghệ thuật kể chuyện dân tộc kết hợp với những cách tân
về nghệ thuật viết tiểu thuyết hiện đại tạo ra một phong cách riêng độc đáo. Nghiên
cứu hình thức nghệ thuật “Báu vật của đời” để chỉ ra được yếu tố truyền thống,
hiện đại và đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm góp phần khẳng định vị trí của Mạc
Ngôn trong dòng chảy của văn học Trung Quốc và văn học thế giới.7
Thành tựu tiểu thuyết của Việt Nam hiện đại có sự hạn chế về mặt nghệ thuật
cũng như số lượng tác phẩm. Các nhà văn Việt Nam như Nguyễn Khắc Phê, Trần
Đăng Khoa coi Mạc Ngôn là tấm gương về sự sáng tạo và tinh thần dũng cảm
khẳng định bản lĩnh của nhà văn. Tiếp cận đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết “Báu vật
của đời” theo hướng thi pháp học, tự sự học đã mở ra một hướng tiếp cận mới trong
các sáng tác của Mạc Ngôn nói riêng, trong các tác phẩm văn học phương Đông nói
chung. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong “Báu vật của đời” có ý nghĩa
khoa học và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung
Trong “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn” (Tạp chí Văn
học Nước ngoài, số 4, năm 2003), bằng hướng nghiên cứu tự sự học và thi pháp
học, Lê Huy Tiêu đã phát hiện ra cái “lạ” trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn. “Tiểu
thuyết của Mạc Ngôn không còn là cốt truyện hoàn chỉnh như tiểu thuyết truyền
thống mà nó chỉ còn là cái khung truyện mà thôi. Nhưng trong cái khung truyện ấy
chứa đầy cảm giác”. Nghệ thuật tự sự độc đáo với điểm nhìn luôn biến hóa, kết cấu
truyện, nghệ thuật xử lí không gian và thời gian, hệ thống nhân vật… đều được Lê
Huy Tiêu phân tích và kiến giải nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát.
Lâm Kiến Phát và Vương Nghiêm sưu tầm và tập hợp những bài phỏng vấn
và diễn thuyết của Mạc Ngôn ở trong và ngoài nước in trong cuốn “Mạc Ngôn và
những lời tự bạch”. Tác phẩm được Nguyễn Thị Thại dịch ra tiếng Việt do nhà xuất
bản Văn học ấn hành, năm 2004. Ngoài ra còn có các bài báo như: Mạc Ngôn cá
tính làm nên số phận (Báo Văn nghệ số 15, 2006), “Báu vật của đời qua tiết lộ của
Mạc Ngôn” (Báo Văn nghệ Công an Nhân dân, tháng 5 năm 2004). Qua các tác
phẩm này, người đọc hiểu thêm về Mạc Ngôn ở nhiều phương diện: động cơ sáng
tác, nguồn gốc ảnh hưởng, quan điểm lập trường và phong cách sáng tác.
Trong bài viết “Nghệ thuật trần thuật hóa gắn với thủ pháp lạ hóa trong tiểu
thuyết của Mạc Ngôn” đăng trên Tạp chí Sông Hương số 224, năm 2007, Hoàng
Thị Bích Hồng chú ý đến thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn ở ba
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
phương diện: miêu tả cảm giác (thể hiện qua khả năng giao lưu giữa người với vạn
vật, mùi vị riêng của các nhân vật), thủ pháp kỳ ảo (motip linh hồn và giấc mơ,
huyền thoại về giấc mơ), phóng đại cái chết và nâng khổ hình lên tầm mĩ học của
bạo lực.
Nguyễn Thị Vũ Hoài trong “Tình yêu và nhu cầu giải tỏa trong tiểu thuyết
của Mạc Ngôn” đã phát hiện ra các nhân vật nữ chủ động và mạnh mẽ đi tìm hạnh
phúc, tình yêu. Họ không chỉ đòi bình quyền mà còn tự chứng minh, tự xác tín cái
cá biệt nữ. Tuy nhiên, nhiều người nữ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn bị bản năng, tình
cảm lấn áp và đời sống tình dục sa đọa. Tình yêu trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn là
những mảnh chắp vá hạnh phúc và đau khổ của người này và người kia. Hiện thực
nghiệt ngã, vùi dập những ước mơ, khao khát mãnh liệt trong tình yêu.
Trong bài “Giấc mơ trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn”, Nguyễn Thị Vũ Hoài
đã nhận định giấc mơ chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của Mạc Ngôn.
Giấc mơ là nơi ẩn giấu những điều phi thực, kì lạ, những khát khao, ham muốn của
nhân vật. Qua giấc mơ, nhân vật tự giác hơn, tìm lại nhân tính và phục thiện. Qua
giấc mộng, ta thấy xã hội Trung Quốc thu nhỏ và sống động.
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đào sâu vào thủ pháp lạ hoá của Mạc Ngôn bằng
cái nhìn tổng quát toàn bộ những tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt qua bài Tài
“phù phép” của Mạc Ngôn đăng trên Báo Tiền Phong online. Theo Nguyễn Khắc
Phê, cách “phù phép” của Mạc Ngôn chính là thi pháp, là phép “lạ hóa”, “huyền
thoại hóa” hiện thực.
Một công trình khoa học có giá trị mới được công bố vào tháng 8/2011 là
luận án Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn của Nguyễn Thị Tịnh Thy.
Tác giả đã khảo sát 11 tác phẩm trường thiên tiểu thuyết của Mạc Ngôn qua những
phương diện chủ yếu như: người kể chuyện, điểm nhìn, thời gian, kết cấu, ngôn
ngữ, giọng điệu,… với những phương pháp nghiên cứu đặc thù như: phương pháp
loại hình, cấu trúc - hệ thống, thống kê – phân loại, so sánh (đồng đại, lịch đại).
Công trình đã góp thêm một vài nhận định vào lĩnh vực nghiên cứu tự sự học nói
chung và tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói riêng.9
2.2. Nghiên cứu về “Báu vật của đời”
Dịch giả Trần Đình Hiến - một dịch giả hàng đầu về văn học Trung Quốc đã
nhận định “Báu vật của đời” là một cuốn sách có chứa đựng những trải nghiệm
nhân sinh, nó thoát khỏi khuôn phép của “lễ trị” xưa và gần gũi với những giá trị
nhân bản. “Báu vật của đời” đã trở thành đối tượng của nhiều công trình nghiên
cứu.
Trong bài “Sự sinh, sự chết, sự sống: Đọc “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn”
đăng trên trang tanviet.net ngày 04/08/2005, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã
tóm lược những điểm chính trong “Báu vật của đời” và đưa ra những nhận định về
tác giả, tác phẩm.
Lê Vũ Phương Thuỷ với khoá luận tốt nghiệp mang tên “Huyền thoại hoá
trong tiểu thuyết “Báu vật của đời”. Khoá luận bước đầu đã tiếp cận tác phẩm thông
qua những biểu tượng mang tính huyền thoại và giải thích nó đó là những biến thể
mang tính phúng dụ trong tư duy cổ đại. Học viên Nguyễn Thị Khánh Linh với luận
văn “Yếu tố kì ảo trong Báu vật của đời” hướng tới nghiên cứu yếu tố kì ảo trong tổ
chức nhân vật và sự kiện tác phẩm.
Trong luận văn thạc sĩ “Biểu tượng tiêu biểu trong Báu vật của đời”, Trần
Thị Ngoan đã tập trung tìm hiểu những biểu tượng tiêu biểu: biểu tượng bầu vú,
biểu tượng totem, biểu tượng nhà. Tác giả cũng đã chú ý đến nghệ thuật xây dựng
biểu tượng như nghệ thuật ảo hóa (ở các phương diện nhân vật, sự kiện, hiện thực)
nghệ thuật phóng đại. Trên cơ sở đó, tác giả tìm ra những giá trị tiềm ẩn khuất lấp
sau từng biểu tượng cũng như mỗi liên hệ giữa chúng, tầm tư tưởng của nhà văn,
những thông điệp nhà văn gửi gắm, từ đó có thể khẳng định tính nhân văn của tác
phẩm.
Trần Thị Hồng Năm trong “So sánh nghệ thuật trần thuật của trăm năm cô
đơn của G.G Marquer và “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn” đã so sánh các bình
diện: người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, không thời gian nghệ
thuật giữa hai tác phẩm. Trên cơ sở đó thấy rõ được ảnh hưởng của Marquer đối với
Mạc Ngôn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
Từ lịch sử vấn đề được khảo sát trên, chúng tui thấy tình hình nghiên cứu
tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung và tiểu thuyết “Báu vật của đời” được chú ý ở
các phương diện sau:
- Hiện nay tiểu thuyết của Mạc Ngôn đã được nghiên cứu một cách rộng rãi
trong các sách báo, tạp chí, mạng Internet. Nhiều công trình có tầm vóc có giá trị
đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật của tiểu thuyết Mạc Ngôn.
- Phần lớn các công trình có đề cập đến tiểu thuyết “Báu vật của đời” chỉ
dừng lại ở việc tiếp cận đến nội dung tư tưởng của tác phẩm. Một số công trình đã
đề cập đến các yếu tố nghệ thuật trong tiểu thuyết “Báu vật của đời” mới chỉ dừng
lại ở một vài khía cạnh nghệ thuật tiêu biểu hay mới chỉ là nghiên cứu trong sự so
sánh với các nhà văn phương Tây để thấy được sự ảnh hưởng của các nhà văn nước
ngoài đến Mạc Ngôn. Các đánh giá trên đúng nhưng chưa thật đầy đủ về tác phẩm.
Vì vậy, dẫn đến những ý kiến trái chiều khi đánh giá tác phẩm này.
Đứng trước tình hình nghiên cứu trên, chúng tui kế thừa thành tựu của người
đi trước kết hợp với việc ứng dụng lý thuyết tự sự học, thi pháp học vào việc nghiên
cứu tiểu thuyết “Báu vật của đời” tìm hiểu cấu trúc văn bản và những vấn đề có
liên quan. Trên cơ sở đó sẽ đánh giá đúng giá trị tác phẩm và văn tài Mạc Ngôn qua
“viên gạch nặng nhất” trong lâu đài sáng tác của nhà văn.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Sử dụng lý thuyết tự sự học, thi pháp học để lí giải hiện tượng Mạc Ngôn
và khẳng định được giá trị của “Báu vật của đời” trong văn nghiệp Mạc Ngôn. Qua
đó đánh giá vị trí của tác giả trong lĩnh vực tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại
- Đưa tác phẩm của Mạc Ngôn gần gũi với bạn đọc Việt Nam. Đồng thời khu
biệt được những nét đặc sắc nghệ thuật của ông với nhà văn khác.
3.2. Đối tượng nghiên cứu11
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết “Báu vật của đời” của Mạc
Ngôn do dịch giả Trần Đình Hiến dịch, Nhà xuất bản Văn học ấn hành, 2009; có độ
dài 815 trang.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hình thức nghệ thuật tác phẩm có nghĩa là tìm hiểu về các biện
pháp, cách thức người kể chuyện dựng lên câu chuyện. Trong đề tài này, chúng tôi
tập trung vào các phương diện sau: Hình tượng người kể chuyện, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tui sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp cấu trúc
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp tiếp cận tự sự học
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn được
chia làm ba chương:
Chương một: Hình tượng người kể chuyện và điểm nhìn nghệ thuật
Chương hai: Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Chương ba: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi12
NỘI DUNG
Chương 1: HÌNH TƯỢNG NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN NGHỆ
THUẬT
1.1. Vấn đề người kể chuyện
1.1.1. Khái niệm người kể chuyện
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp
văn xuôi hiện đại. Các nhà lí luận, phê bình từ nhiều khuynh hướng tiếp cận khác
nhau đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về người kể chuyện. Tựu trung lại, người kể
chuyện được hiểu một cách đơn giản và thống nhất là: “người kể lại câu chuyện”.
Nói như Todorov: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới
tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện”[45;116].
Hình tượng người kể chuyện đóng vai trò trung gian giữa chủ thể sáng tạo và
tác phẩm. Là một vai trò được tác giả nghĩ ra và ước định, đồng thời người kể
chuyện vừa là một trong những hình thức thể hiện quan điểm tác giả trong tác
phẩm, vừa mang trong mình cả một phần nội dung khách quan của thế giới được
phán ánh vào tác phẩm. Hình tượng người kể chuyện là một hình tượng nghệ thuật
khá phức tạp. Trong tác phẩm, người kể chuyện có thể là tác giả hay có thể là một
nhân vật do nhà văn sáng tạo ra, có thể là người biết tuốt một câu chuyện nào đó.
Người kể chuyện có thể xuất hiện lộ diện hay ẩn tàng. Nhìn một cách tổng thể,
người kể chuyện thường được thể hiện dưới 3 hình thức sau: Người kể chuyện ngôi
thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ hai và người kể chuyện ngôi thứ ba. Một tác
phẩm có thể có một hay nhiều người kể chuyện.
Người kể chuyện có chức năng kể chuyện, trần thuật, truyền đạt, đóng vai trò
tổ chức tự sự, chỉ dẫn trần thuật và bình luận, đồng thời thực hiện chức năng nhân
vật hóa. Người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ
sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm
cho sự tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú và nhiều phối
cảnh.13
1.1.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết “Báu vật của đời”
Không có bất cứ một nguyên tắc nào trong việc lựa chọn ngôi kể. Lựa chọn
như thế nào là do dụng ý của nhà văn nhằm nổi bật tư tưởng, chủ đề tác phẩm và tái
tạo hiện thực đời sống chân thực và khách quan nhất. “Báu vật của đời”- cuốn tiểu
thuyết mà Mạc Ngôn đánh giá là nặng nề nhất của mình sử dụng hai kiểu người kể
chuyện chính là người kể chuyện từ ngôi thứ ba và người kể chuyện từ ngôi thứ
nhất. Với Mạc Ngôn- một hiện tượng của văn học Trung Quốc đương đại đang “làm
cho các nhà phê bình phát hoảng” thì sử dụng ngôi kể truyền thống nhưng vẫn phô
diễn được nét độc đáo trong kĩ thuật viết tân kỳ của mình thông qua hình tượng
người kể chuyện.
1.1.2.1. Người kể chuyện hàm ẩn
Trong truyện kể ở ngôi thứ ba, người kể chuyện thường không xuất hiện và
dĩ nhiên là không trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện. Anh ta thường được
gọi là người kể chuyện ở ngôi thứ ba hay người kể chuyện hàm ẩn, giấu mặt, ẩn
tàng, “thượng đế”. Thông thường, người kể chuyện này có quyền năng vô hạn như
một “thượng đế” trong toàn câu chuyện của mình. Anh ta là người biết tuốt, “toàn
tri”, có khả năng thâu tóm toàn bộ thế giới hiện thực của tác phẩm. Đồng thời ngoài
việc dẫn dắt câu chuyện, người kể chuyện này còn giữ vai trò phân tích, bình giá
làm rõ các mối quan hệ trong tác phẩm.
Theo lí thuyết của các nhà trần thuật học, truyện kể ở ngôi thứ ba có hai dạng
chính: Truyện kể có người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật và truyện
kể có người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình.
Mạc Ngôn lựa chọn ngôi kể truyền thống- dùng ngôi thứ ba để kể nhưng với
việc sử dụng kĩ thuật của trần thuật, ông đã tìm cho mình một cách thuật chuyện
riêng đầy sáng tạo. Đó là kiểu người kể chuyện ở ngôi thứ ba không còn mang
nguyên nghĩa “hàm ẩn” hay toàn tri như thủ pháp tự sự truyền thống mà người kể
chuyện đã sử dụng điểm nhìn của các nhân vật khác trong truyện để kể. Và nếu như
không có sự phối hợp của những cái “tôi” kể chuyện khác thì bức tranh hiện thực sẽ
không thể trở thành một chỉnh thể vẹn toàn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi14
Trong “Báu vật của đời”, người kể chuyện hàm ẩn gánh trọn nhiệm vụ kể
chuyện ở chương 1 và xuất hiện ở các đoạn trong chương 5, 6, 7 và phần viết thêm.
Sử dụng ngôi kể thứ ba, Mạc Ngôn lựa chọn hai dạng thức để kể: người kể chuyện
kể theo điểm nhìn của chính mình và theo điểm nhìn của nhân vật. Với việc sử dụng
linh hoạt và đan xen hai dạng thức kể chuyện này, câu chuyện đã được soi xét trên
nhiều phương diện, nhiều góc độ. Chương 1 là chương thuần túy chỉ sử dụng hình
thức kể chuyện từ ngôi thứ ba và có sự kết hợp giữa các điểm nhìn để cùng kể về
chuyện sinh nở của Thượng Quan Lỗ Thị và việc quân Nhật sắp tràn vào thôn.
Người kể chuyện hàm ẩn đã sử dụng điểm nhìn của chính mình, sử dụng điểm nhìn
của Thượng Quan Lỗ Thị và điểm nhìn của Lai Đệ để kể. Do sử dụng các điểm nhìn
khác nhau, mức độ chiếm lĩnh hiện thực và giọng điệu khác biệt đã tổ chức nên
những mảng khác nhau cho bức tranh hiện thực ở chương 1.
Người kể chuyện hàm ẩn sử dụng điểm nhìn của chính mình để tái hiện lại
hiện thực. Người kể chuyện này đóng vai trò là người quan sát, đứng ở bên ngoài
thế giới hiện thực trong truyện, kể lại những gì mà mình quan sát và cảm nhận được
bằng giọng điệu khách quan, trung tính. Người kể chuyện này đã kể lại sự kiện chị
Lỗ sinh con và quân Nhật tràn vào thôn.
Chị Lỗ sinh con trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: quân Nhật sắp tràn vào
thôn. Cùng ngày chị Lỗ trở dạ, con lừa nhà Thượng Quan cũng sắp đẻ con so. Cả
hai đều trong trường hợp đẻ khó. Nhưng thái độ của gia đình Thượng Quan thì lại
trái ngược nhau. Chị Lỗ phải một mình vật lộn trong lần vượt cạn. Chiếc giường đất
do mẹ chồng chuẩn bị đã trở thành bùn nhão trộn bằng máu. Những cơn đau xé ruột
khiến chị có lúc phải thét lên kinh hoàng, có lúc lại ngất đi tưởng đã chạm ngõ thần
chết. Trong khi đó, cả nhà Thượng Quan: mẹ chồng, bố chồng, chồng lại dành hết
sự quan tâm săn sóc cho con lừa sắp đẻ con so. Hai cha con Thượng Quan xoa bóp,
nắn bụng cho con lừa. Bà Lã vuốt ve, an ủi nó. Và khi thấy tình hình nguy cấp, bà
Lã quyết định đi mời Ba Phàn- thú y kiêm bà mụ của súc vật về đỡ đẻ cho con lừa.
Người kể chuyện đặt hai sự việc song song nhau thuật lại khách quan, lạnh lùng như
nó vốn có. Từ hiện thực được tái tạo, người đọc tự cảm nhận về thân phận rẻ rúng15
của người phụ nữ Trung Quốc đặc biệt là khi họ không sinh được con trai để nối dõi
tông đường, sự lạnh lùng trong tình cảm giữa người với người.
Việc quân Nhật tràn vào thôn đánh dấu bằng sự việc bất thường đầu tiên là
nhà Phúc Sinh Đường chạy giặc, Tư Mã Đình đứng trên đài quan sát không ngừng
thông báo tình hình về bước tiến của quân Nhật, kêu gọi người dân trong thôn chạy
giặc. Tâm trạng lo sợ bao trùm trong thôn, gia đình Thượng Quan mắc kẹp giữa một
bên là sức ép của không khí khẩn trương thúc ép của buổi chạy giặc, một bên là cô
con dâu và con lừa đang cùng trở dạ. Cha con Thượng Quan sợ hãi, còn bà Lã bình
thản vì cho rằng “ai làm quan thì nhà mình vẫn là người dân, vẫn phải nộp tô cho
chúng. Người Nhật với ta không thù không oán, vậy chúng làm gì ta”. “Chạy nhanh
đến mấy cũng không bằng hòn đạn, trốn thì biết trốn đến bao giờ” [34;36]. Suy nghĩ
của bà Lã phần nào trấn tĩnh được cha con Thượng Quan và Ba Phàn. Ở bên ngoài,
Tư Mã Khố cùng đám gia nhân nhà Phúc Sinh Đường đánh hỏa công ở cầu để chặn
đường đi của quân Nhật. Trận phục kích của đội quân Hỏa Mai Lừa Đen ở chân đê
sông Thuồng Luồng bị quân Nhật đánh tan tác. Quân Nhật tràn vào thôn gây ra
cảnh chết chóc kinh hoàng. Thượng Quan Phúc Lộc, Thượng Quan Thọ Hỷ cũng
chết trong trận càn này.
Điều đáng lưu ý là người kể chuyện đã sử dụng điểm nhìn của Thượng Quan
Lỗ Thị và Lai Đệ để kể. Bà Lỗ là người mẹ trong cơn vượt cạn. Lai Đệ là người
chứng kiến trận đánh giữa đội quân Sa Nguyệt Lượng và quân Nhật. Những suy
nghĩ, cảm nhận của họ đã hàm chứa những thông tin trùng lặp với người kể chuyện
hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình đồng thời họ lại sở hữu những thông tin
độc quyền do chính cảm nhận và cái nhìn của mình mang lại. Cách kể này khiến
người kể chuyện dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật, tạo nên ở
độc giả những cảm giác trực tiếp, gần gũi với thế giới nhân vật, khiến chúng ta
không có cảm giác đang nghe kể mà là được chứng kiến trực tiếp.
Chị Lỗ trải qua bao quằn quại, đau đớn trong lần sinh nở thứ 8. Chỉ có chị
mới “cảm giác một trận quẫy đạp bụng cuộn nên từng cục, đau đến nghẹt thở”
[34;11]; nỗi sợ hãi bàn tay mẹ chồng gõ vào bụng; sự xấu hổ, uất hận nhục nhã khi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi16
nghĩ đến Ba Phàn và bố chồng sẽ trơ tráo vào buồng người đẻ, mục kích thân thể
lõa lồ của chị; những giấc mơ quái gở ám ảnh; kí ức cảnh yêu nhau trong rừng hòe
với mục sư ùa về; tình cảm dửng dưng không yêu không hận dành cho chồng, tâm
trạng lúc hi vọng lúc chán nản; nỗi hoang mang đến cùng cực khi chị tưởng tượng
ra mình chết. Trong cơn tuyệt vọng, chị cầu nguyện được chết: “Trời ơi! Hãy cho
tui chết đi, tui chịu đựng hết thảy rồi!... Chúa ơi, Đức Mẹ ơi, hãy tưới nhuần mưa
móc, hãy cứu vớt linh hồn chúng con”[34;48]. Chính cảm nhận của người trong
cuộc đã bổ khuyết để khắc sâu ấn tượng chủ quan vào trong điểm nhìn khách quan
của câu chuyện. Rất nhiều động từ “cảm thấy”, “nghe thấy”, “nhìn thấy”, “trông
thấy”, “nhớ lại”, “ngửi thấy”… của chủ thể Lỗ Thị đã được sử dụng nhằm khu biệt
cảm nhận của chị với đối tượng khác. Tâm trạng của người phụ nữ khi trở dạ với
phức hợp những niềm vui, nỗi buồn, đau đớn, hi vọng, tuyệt vọng đã lần lượt hiện
lên trong tâm trí người đọc.
Để độc giả trực tiếp cảm nhận hơi thở lạnh giá của chiến tranh, nhà văn sử
dụng điểm nhìn của Lai Đệ. Lai Đệ là cô con gái của nhà Thượng Quan, 18 tuổi.
Cuộc sống của cô diễn ra khá bình lặng trong khuôn khổ của gia đình Thượng
Quan, chưa trải qua những sóng gió, va vấp. Lai Đệ đưa các em ra ngoài đê sông
Thuồng Luồng bắt tôm, chứng kiến trận đánh giữa quân Nhật với đội Hỏa Mai Lừa
Đen của Sa Nguyệt Lượng. Không gian rợn ngợp với cảnh tượng hãi hùng đượm
mùi chết chóc đã rót vào tâm hồn cô gái trẻ Lai Đệ ấn tượng ghê rợn. Cô “trông
thấy một nắm cỏ nước nhão nhoét như ợ ra từ miệng trâu bám trên người Niệm Đệ”
[34;38], “trông thấy một vật đen sì từ trên trời rơi xuống”[34;39], “trông thấy những
cẳng ngựa chín tái, đầu người lăn lông lốc”[34;46], “ngửi thấy mùi thuốc súng
nồng nặc”, “cảm giác đau rát từ trong tai chui ra”, “cảm giác lồng ngực như sắp nổ
tung bất cứ lúc nào”[34;46]. Đó là hàng loạt những cảm nhận của Lai Đệ về chiến
tranh.
Trong các đoạn thuộc chương 5, 6, 7 và phần viết thêm, người kể chuyện
hàm ẩn đã sử dụng điểm nhìn của Kim Đồng để kể. Những mối quan hệ: mẹ, chị cả,
chị Tư, chị Bảy, chị Năm, Tư Mã Lương… là được nhìn từ Kim Đồng, trong mối17
quan hệ với Kim Đồng. Kim Đồng có những suy nghĩ, cảm nhận, hành động, quan
sát trước hiện thực cuộc sống trong “Báu vật của đời”. Anh là nhân vật hành động,
là chủ thể của hành động được kể lại, là chủ ngữ trong câu, thuộc về hiện thực được
nói đến. Người kể chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện để kể
bằng cách đẩy nhân vật ra trước độc giả. Vì thế trước mắt độc giả không thấy người
nói, chỉ thấy hiện thực được trình bày. Có một người nào đó nữa đang quan sát Kim
Đồng, kể về Kim Đồng và các nhân vật khác. Tự điểm nhìn Kim Đồng, người kể
chuyện hàm ẩn dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm của Kim Đồng, dễ dàng
hòa vào cái gia đình của Kim Đồng và đặt từng thành viên của gia đình ấy trước độc
giả mà không cần một lời giới thiệu nào cả.
Kim Đồng mắc chứng bệnh ảo tưởng hình ảnh Natasa. Chỉ có anh mới
“trông thấy” một Natasa nguyên vẹn như nàng tiên cá, hát điệu dân ca buồn buồn
quen thuộc từ lòng sông dâng lên; “thấy Natasa khóc trong chậu, thấy Natasa cười
trong gương”. Kim Đồng còn “nghe thấy” tiếng thở của cô, “cảm thấy” tóc cô quệt
vào mặt, bàn tay âm ấm của cô rờ khắp cơ thể. Anh cũng “nhìn thấy” Natasa bị Mã
Sơn Nhân nuốt vào trong bụng. Kim Đồng nói hỗn với thầy chủ nhiệm Tiêu Kim
Cương cũng chỉ với mục đích mượn uy thầy để rũ bỏ hình ảnh Natasa ra khỏi tâm
chí. Nếu nhìn bề ngoài hành động của Kim Đồng có vẻ điên rồ, không thể hiểu và
chấp nhận được nhưng suy nghĩ, cảm nhận của Kim Đồng giúp người đọc soi thấu
căn nguyên, xuất phát điểm hành động là nỗi nhớ thương vô vọng và tình yêu dành
cho cô gái nước Nga xa xôi.
Từ điểm nhìn Kim Đồng, người kể chuyện dễ dàng thâm nhập vào gia đình
Thượng Quan với những mối quan hệ chằng chéo phức tạp. Đó là cuộc tình kì lạ
giữa chị cả- Lai Đệ và Hàn Chim, một thứ tình yêu “như hoa cây thuốc phiện, rực
rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc”. Sống với Tôn Bất Ngôn, cuộc sống chẳng khác gì
địa ngục nên khi được Hàn Chim nâng niu, yêu thương, chị đã theo dòng cảm xúc
bất chấp tất cả. Hàn Chim đến với chị để thỏa mãn ngọn lửa thanh xuân bị kìm nén
trong suốt mười lăm năm cơ cực. Cuộc tình ngang trái giữa Lai Đệ và Hàn Chim
được sự bảo trợ không hợp pháp của người mẹ dù bà đã biết trước hậu quả của mối
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi18
tình này. Nguyên nhân khiến mẹ thông cảm cho mối tình oan trái này là vì “mẹ
thông cảm và day dứt khi thấy Lai Đệ bị Thằng Câm hành hạ, vì mẹ thông cảm với
cuộc sống đầy cơ cực của Hàn Chim và món nợ thịt chim cách đây mười lăm năm
đồng thời để tỏ lòng thương nhớ và nể trọng chị Lãnh Đệ” [34;489]. Sử dụng điểm
nhìn Kim Đồng, người đọc dễ dàng thấu hiểu những ngóc ngách nguồn cơn sâu sa
của mối quan hệ Lai Đệ- Hàn Chim.
Cuộc sống làm công nhân nông trường đặc biệt là trong mối quan hệ với trại
trưởng Long đã để lại trong Kim Đồng những ấn tượng chủ quan sâu sắc. Ở bên
cạnh Long Thanh Bình, Kim Đồng chỉ nhận thấy chất anh hùng mà không nhận ra
vẻ đẹp nữ tính ở chị. Thậm chí, anh còn “trông thấy mặt chị ta dài ra, từ giữa cặp
mông mọc ra một cái đuôi dài như chiếc chổi” [34;516]. Do vậy, Long Thanh Bình
có cầu xin, đe dọa vẫn không thể đánh thức người đàn ông trong Kim Đồng. Nhưng
chính vào giây phút Long Thanh Bình tuyệt vọng tự sát, Kim Đồng mới nhận ra tư
thế hấp dẫn của người đàn bà. Anh đã thỏa mãn khát khao làm phụ nữ của chị trước
khi cơ thể chị mất hết cảm giác. Do kích động nhất thời anh đã giao hợp với cái xác
Long Thanh Bình, sau đó anh rơi vào trạng thái hối hận sâu sắc. Hình ảnh lõa thể
Long Thanh Bình trở thành ác mộng ám ảnh Kim Đồng. Kim Đồng gặp rắc rối
trong vụ điều tra về cái chết của trại trưởng Long. Anh đã trải qua những cảm giác
lo âu, hối hận, sợ hãi của người mang mặc cảm có tội nhưng cuối cùng may mắn
thoát tội nhờ trận lũ đã xóa sạch dấu vết.
Và cũng như bao người khác trong thời bấy giờ, Kim Đồng cũng phải chịu
sự hành hạ của cái đói trong những năm 60. Kim Đồng cũng chứng kiến cái đói đã
hành hạ thể xác và hủy hoại nhân cách những người xung quanh đặc biệt là những
người thân yêu nhất. Cô giáo Hoắc Lệ Na xuất thân quyền quý, từng du học nước
ngoài hay Kiều Kỳ Sa- hoa khôi của Học viện Y khoa vì miếng ăn mà phải thất thân
trước tên cấp dưỡng Trương Rỗ. Ban đầu cậu kiên quyết không tin nhưng khi Kim
Đồng đã mục kích câu chuyện Kiều Kỳ Sa đuổi theo chiếc bánh với bản năng của
động vật mặc cho Trương Rỗ muốn làm gì ở phần dưới cơ thể mình thì làm thì Kim
Đồng buộc phải chấp nhận sự thật cay đắng. Trong khi đó ở nhà Kim Đồng, để cứu19
cả gia đình khỏi cái đói, mẹ anh đã trở thành kẻ trộm lương thực- một kẻ trộm siêu
hạng. Mẹ nuốt lương thực vào bụng về nhà nôn ra. Nhờ những hạt lương thực quý
báu trộn lẫn dịch vị dạ dày, máu của mẹ mà cả gia đình Thượng Quan đã vượt qua
những năm đói khát ấy. Hôm đầu tiên trở về nhà, Kim Đồng đã tận mắt thấy rõ cách
thức mẹ oằn mình nôn lương thực ra. Đưa bát hồ được làm từ thứ lương thực quý
báu ấy, Kim Đồng đã cảm nhận tình yêu thương đong đầy và sự hi sinh vĩ đại của
mẹ. Người chị song sinh của Kim Đồng không nhẫn tâm sống bằng lương thực trộn
lẫn máu của mẹ đã trẫm mình xuống sông. Cái chết của người con gái thánh thiện
mà sớm chịu bất hạnh này đã được kể từ điểm nhìn của Kim Đồng bằng giọng tâm
tình, nuối tiếc. Cùng ngày Kim Đồng từ nông trường trở về nhà, người con gái đã
bán mình để cứu cả nhà thất lạc đã lâu cũng về nhà. Kim Đồng và Tưởng Đệ cùng
ngồi trên chiếc thuyền qua sông để về nhà. Anh nhận ra vẻ bất cần đời của những cô
gái nhà Thượng Quan ở chị. Và anh cũng đã được tận mắt chứng kiến cảnh cán bộ
công xã trắng trợn tịch thu chiếc đàn tì bà của chị. Sau này qua lời kể của chị, Kim
Đồng biết đó là tài sản đổi bằng máu, nước mắt, tuổi thanh xuân và cả cuộc đời
không được làm vợ, làm mẹ của chị.
Trong cách mạng văn hóa, Kim Đồng cùng mẹ bị Hồng vệ binh bắt, bị giải
đi diễu phố. Trên cổng nhà cậu treo một lô biển “Nhà Hán gian”, “Sào huyệt của
bọn Hoàn Hương Đoàn”, “Nhà thổ”. Kim Đồng bị chụp mũ “tội phạm hiếp xác
chết”, còn mẹ cậu thì bị chụp mũ “đồ giòi bọ Thượng Quan Lỗ Thị”. Hình ảnh
những con người bị giải đi diễu phố, quang cảnh đường phố, Phòng Thạch Tiên bị
đánh cắp đồ; bà Lỗ bị Hồng vệ binh đánh đập, cuộc ẩu đả giữa hai nhóm Hồng vệ
binh đều được nhìn từ điểm nhìn Kim Đồng. Không dừng lại ở vai trò quan sát,
Kim Đồng còn là chủ thể cảm nhận. Nhắc đến Phòng Thạch Tiên, anh “nhớ lại”
việc hắn vu oan cho mẹ anh là người ăn cắp và đã đánh bà chảy máu. Vì vậy trước
hành động cứu hắn khỏi chết đuối, nhường lại chiếc áo ấm của mẹ, Kim Đồng
không đồng tình thậm chí anh còn oán mẹ. Chứng kiến cảnh mẹ bị đánh, cơn giận
trong người anh cũng bùng lên.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi20
Sự đổi thay của Cao Mật trong những năm 90 đều được nhìn bằng đôi mắt
của Kim Đồng- đôi mắt của một người sống mười lăm năm trong tù mới được trở
về với cuộc sống đời thường. Quanh cảnh phòng chờ, cảnh chen lấn lên xe, những
tòa nhà cao tầng, công trường đang xây dựng dở, phố xá xe cộ nườm nượp… đều
trở nên hết sức lạ lẫm dưới cái nhìn của Kim Đồng. Và để lại những cảm giác bàng
hoàng trong anh. Đó là cảm giác của người bị tụt hậu, một kẻ cô đơn lạc lõng và
mang tâm lý tự ti về ngoại hình khác biệt.
Trong con mắt của mọi người, Kim Đồng là người đàn ông của “Vua phế
liệu”- Kim Một Vú nhưng có ai biết rằng khi đến tìm mụ Kim trước ánh mắt đổ dồn
của mọi người “Kim Đồng cảm giác ngứa ran như bị rắc trấu”[34;590], bối rối
không biết nên chọn dáng đi như thế nào? Và cũng chỉ anh mới biết niềm si mê bầu
vú duy nhất của mụ Kim đã thôi thúc anh đi tìm Kim Một Vú và buộc anh vào bên
mụ.
Được Cảnh Liên Liên mời về làm giám đốc Maketting “Trung tâm nuôi chim
phương Đông” được đối xử tốt, Kim Đồng cũng băn khoăn tự hỏi “không biết cô
gái thông minh và năng động này sẽ dùng anh vào việc gì”[34;613]. Không lợi dụng
được mối quan hệ thầy trò giữa Kim Đồng và Kỷ Quỳnh Chi, Kim Đồng bị Cảnh
Liên Liên đuổi việc. Nhưng anh đã tự xỉ vả, tự trách mình bất tài và nuôi ý nghĩ xin
lỗi Cảnh Liên Liên.
Sai lầm tiếp theo của Kim Đồng bắt đầu từ sự mủi lòng, từ niềm cảm thông
với người đàn bà góa đứng dầm mưa trong đêm tối đã khiến anh “cảm giác không
còn lý do để mình không mở cửa”[34;670]. Anh hoài nghi về cái bẫy cha con Uông
Ngân Chi đã sắp đặt để dụ anh vào. Việc kinh doanh cửa hiệu nịt vú được giao cho
Uông Ngân Chi, Kim Đồng trở thành người thừa, sống trong tâm trạng bức bối. Và
cũng chỉ đơn giản nghĩ rằng “khóc có thể không bị đánh” nên anh đã quỳ trước mặt
người nhà Uông Ngân Chi. Bị đuổi ra khỏi nhà, Kim Đồng lang thang trong đêm
dưới trời mưa. Anh miên man nghĩ về Uông Ngân Chi, nghĩ về sự đổi thay của lòng
người và hối hận khi đã nổi giận với vợ.21
Nhà văn cũng đã sử dụng điểm nhìn Kim Đồng kể về một số thành viên nhà
Thượng Quan. Sa Tảo Hoa vì không nhận được tình cảm của Tư Mã Lương đã nhảy
lầu tự sát. Tư Mã Lương phá sản, bỏ đi không rõ tung tích. Lỗ Thắng Lợi bị tử hình
vì nhận hối lộ. Bà Lỗ qua đời. Kim Đồng chôn mẹ ở một vạt đầm lầy. Đêm nằm
canh mộ mẹ, anh suy ngẫm về sự hình thành của vũ trụ và nghĩ đến bầu vú.
Điều đặc biệt là cuộc đời gian truân dằng dặc của người mẹ- Lỗ Toàn Nhi
cũng được kể bởi điểm nhìn Kim Đồng (dù lúc này Kim Đồng chưa chào đời). Năm
mười sáu tuổi, Trung Hoa giải phóng tục bó chân, Lỗ Toàn Nhi bị gả vào làm dâu
nhà Thượng Quan. Những tháng ngày làm dâu là những tháng ngày đau khổ dằng
dặc trong cuộc đời bà. Chồng không có khả năng sinh con nên Thượng Quan Lỗ Thị
phải đi xin giống thiên hạ. Sau bảy lần sinh nở toàn là con gái, không khí gia đình u
ám, bà bị coi là tội đồ của nhà Thượng Quan. Kim Đồng là đứa con trai duy nhất
trong chuỗi sinh nở, đã thỏa mãn niềm khát khao của Thượng Quan Lỗ Thị.
Bên cạnh việc sử dụng điểm nhìn Kim Đồng thì trong tiểu thuyết này, người
kể chuyện hàm ẩn còn sử dụng điểm nhìn của Hàn Chim để kể về câu chuyện anh ta
phải lưu lạc mười lăm năm trong rừng Hockaido (Nhật Bản). Bị quân Nhật bắt, Hàn
Chim bỏ trốn chạy vào rừng sâu, bị lạc trong rừng. Hàn Chim gặp hai người bạn
đồng hành cùng bỏ trốn: lão Đặng, chú Tốt. Ba người tìm đến một làng ven biển ép
một người dân Nhật đưa về Trung Quốc nhưng bị phát hiện, bị truy đuổi. Hai người
kia bị bắt lại, sau này được coi là tù binh trao trả lại Trung Quốc. Hàn Chim chạy
thoát, sống trong rừng sâu, sau đó được một người đi săn lôi từ trong hang tuyết ra
vì tưởng nhầm con gấu ngủ đông. Trong thời gian sống ở rừng anh trải qua rất nhiều
chuyện: thương lượng để chung sống hòa bình với sói, đánh nhau với gấu, cuộc
sống thiếu thốn ở trong hang. Anh cũng trải qua những cung bậc cảm xúc khi tha
hương nơi xứ người: sung sướng khi thoát khỏi quân Nhật, bị cái đói cái rét giày vò,
đáng sợ là sự khủng hoảng về mặt tinh thần. Anh vừa sợ việc mình muốn bỏ chạy là
sai lại vừa muốn thoát khỏi quân Nhật. Nhiều khi sống trong cô đơn, anh thèm nghe
tiếng người, thèm được nói chuyện với người. Và những lúc như thế nỗi nhớ về
người con gái nhà Thượng Quan, về vùng Đông Bắc Cao Mật lại dâng lên trong
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi22
cảnh bị truy bắt như thế nào? Ông đã tham gia đội dân công cứu thương lập chiến
công đạt được huân chương. Những chuyện này đã soi chiếu đoạn đời bí ẩn của Tư
Mã Đình.
Mạc Ngôn cũng sử dụng cách này khi cung cấp cho độc giả thông tin
về hai phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái Bình và Vương Công Bình. Vì muốn
trốn quân dịch, họ giả bệnh. Sự việc bị phát hiện. Hai anh em này trở thành dân
công ra mặt trận cáng thương, vận tải đạn dược. Do tật nói lắp không nói rõ được
đầu đuôi câu chuyện họ vất vả khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê nên bị anh trai
Đỗ Bảo Thuyền hiểu nhầm. Qua một vài chi tiết, người đọc hiểu được tính cách
hiền lành chất phác và tính chuyên nghiệp của hai phu kiệu này.
Ngoái lại đã làm xáo trộn, ngắt quãng tính liên tục của thời gian vật lý. Câu
chuyện diễn ra luôn có sự đảo lộn, xoay chiều giữa quá khứ và hiện tại, giữa sự
kiện này và sự kiện kia tạo cảm giác cuộc sống được dựng lên trong tác phẩm
dường như bộn bề hơn, sâu sắc hơn, hỗn loạn hơn.
3.2.2.3. Báo trước
Báo trước là cách kể trước các sự kiện sẽ xảy ra ở thì tương lai (sự kiện tiên
báo). Lối báo trước này đã xuất hiện trong văn chương từ thời cổ đại cả ở phương
Tây lẫn phương Đông. Trong tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, đầu mỗi hồi
bao giờ cũng có một cặp câu đối tóm tắt nội dung chính của hồi đó để giới thiệu, tạo
sự hứng thú cho người nghe. Đó là kiểu báo trước theo kết cấu chương hồi. Kiểu
báo trước này đã trở thành một đặc trưng của lối báo trước “kiểu Trung Quốc”.
Đến thời hiện đại, do lối báo trước làm giảm và thậm chí tiêu hủy đi sự bất
ngờ đối với độc giả khi đã tước mất quyền phán đoán, khám phá tác phẩm của họ
nên lối báo trước gần như bị các nhà tiểu thuyết lãng quên. Trái lại trong “Báu vật
của đời”, Mạc Ngôn đã sử dụng lối báo trước theo kiểu vừa phục cổ vừa cách tân.
Sự kiện tiên báo trong tác phẩm này xuất hiện một cách mất trật tự bởi vì không
được kể bằng cách viết mà kể bằng cách nói. Nhớ lại và viết dù sao cũng có thời
gian để bình tâm, suy tính và sắp xếp; nhớ lại và nói thì rất dễ mất kiểm soát, mất
phương hướng vì lúc ấy kí ức và sự kể làm chủ người kể chuyện.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi80
Thống kê toàn bộ tác phẩm, ta sẽ được các sự kiện trên báo như sau:
(1) Lời của người kể chuyện: “ Đột nhiên, Lai Đệ nhìn thấy một khuôn mặt
đen nhẻm lấp ló trong bụi cây... và chính con người mặt đen đó, cuối cũng đã chui
vào chăn của cô”[34;33].
(2)Lời của Kim Đồng: “Những người ngụ cư dựng lên mấy chục túp lều ở
chân Bãi Cát Dài, giành lấy chỗ đứng cho mình. Mười mấy năm sau, nơi đây trở
thành thôn trang. Lại qua đi mười mấy năm, trở thành một thị trấn phồn hoa, nhà
cửa nối liền với trấn Đại Lan(…) những năm 90, Đại Lan trở thành thành phố, thị
trấn Bãi Cát Dài trở thành khu Loan Tây của thành phố. Khi ấy, nơi đây xây dựng
một “Trung tâm nuôi chim phương Đông”, những giống chim quý đã tuyệt chủng ở
nhiều nước, có thể mua ở đây(…). Người sáng lập Trung tâm Chim là con trai Hàn
Chim, có biệt hiệu Hàn Vẹt. Hàn Vẹt giàu lên nhờ nuôi dưỡng, nhân giống và lai
tạo giống mới(…) và được sự giúp đỡ của vợ là Cảnh Liên Liên, anh ta vang bóng
một thời, sau đó bị ngồi tù” [34;132]
(3) Lời của Lãnh Đệ: “Anh ấy bị bắt sang Nhật rồi, mười tám năm sau mới
trở về. Mẹ lập bàn thờ cho con, con là Tiên Chim đây” [34;136]
(4)Lời của Kim Đồng: “Những kiến thức về địa lý này do Hàn Chim bảo tôi
mười lăm năm sau”[34;255]
(5)Lời của Kim Đồng: “Mấy chục năm sau, khi tui phủ trên tấm thân không
một mảnh vải của cô” [34;255]
(6) Lời của Kim Đồng: “Vài năm sau, khi đại đội bộc phá biên chế lại thành
trung đoàn độc lập trở lại Cao Mật, ai cũng bất nhẫn trước cảnh binh sĩ và sĩ quan
của chi đội Tư Mã bị bắn chết” [34;203]
(7) Lời của Kim Đồng: “Đó là một sáng tạo sau này, khi tui là chuyên gia về
nịt vú, tui đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt”[34;329]
(8)Nhà Thượng Quan hy sinh cô con gái đầu lòng đổi lấy vinh hoa phú quý,
nay sắp kết thúc cùng chuyện Hàn Chim trở về” [34;485]
Những báo trước này đều tung ra những thông tin mang tính thông báo trước
cho người đọc sự việc sẽ xảy ra sau đó. Cụ thể là : (1) Sa Nguyệt Lượng sẽ chui vào81
chăn của Lai Đệ; (2) Sự phát triển phồn thịnh của Đại Lan; kết cục phá sản của
“Trung tâm nuôi chim phương Đông” (3) 18 năm sau Hàn Chim trở về; (4)Hàn
Chim dạy Kim Đồng những kiến thức về địa lý; (5) Kim Đồng và Kim Một Vú sẽ
lên giường cùng với nhau; (6) đại đội bộc phá sẽ quay trở lại Cao Mật, chi đội Tư
Mã Khố bị tàn sát; (7) Kim Đồng sẽ trở thành chuyên gia về nịt vú; (8) Mối quan hệ
Hàn Chim và Lai Đệ dẫn đến cái chết Tôn Bất Ngôn, Hàn Chim, Lai Đệ và đảo lộn
cuộc sống gia đình Thượng Quan. Đó là những thông tin mới mẻ và bất ngờ với
người đọc vì lúc ấy tại thời điểm đang diễn ra câu chuyện, (1)Lai Đệ và “con người
mặt đen ấy” Sa Nguyệt Lượng chưa hề có tình ý với nhau. (2)Bãi Cát Dài chỉ là nơi
trú ngự của những người ngụ cư.(3)Hàn Chim bị Nhật bắt.(4)Kim Đồng chưa gặp
Hàn Chim.(5)Kim Đồng mới là một đứa trẻ, Kim Một Vú lớn tuổi hơn nhiều. (6)Tư
Mã Khố thống trị vùng Cao Mật. (7)Kim Đồng là một đứa trẻ chỉ uống được sữa dê.
(8)Hàn Chim mới trở về ở tại nhà Thượng Quan, Lai Đệ đang là vợ của Tôn Bất
Ngôn, nhà Thượng Quan được vinh dự là nơi trú chân của anh hùng quân đội Tôn
Bất Ngôn và anh hùng huyền thoại Hàn Chim.
Mạc ngôn đã chen ngang, “thả” một cách tùy tiện tình tiết của mạch truyện
sau vào mạch truyện trước bằng một vài câu thậm chí là nửa câu ngữ pháp. Cách
đột ngột “ thả” rồi đột ngột dừng lại này làm cho độc giả kinh ngạc. Người đọc phải
tiếp tục đuổi theo cho đến lúc nào bắt được sự lý giải tường tận, được “giải kinh
ngạc” rồi mới thôi. Mà chặng đường được “giải kinh ngạc” trong tiểu thuyết của
Mạc Ngôn thì rất dài có khi chỉ cách một chương nhưng cũng có khi đến tận
chương cuối cùng. Sức cuốn hút người đọc của sự kiện tiên đoán mạnh mẽ hơn
nhiều so với cách dừng chuyện “ hồi sau sẽ rõ” của tiểu thuyết chương hồi ngày
xưa. Đây cũng chính là sự kế thừa và cách tân khiến lối báo trước trong nghệ thuật
xử lý thời gian của Mạc Ngôn có sự đan xen giữa truyền thống, hiện đại và hậu hiện
đại, tạo nên một phong cách nghệ thuật rất riêng của nhà văn. Cách thả này lộ liễu,
hiển phục không ẩn phục ngầm kín như trong tiểu thuyết chương hồi. Từ sự gợi
mách của sự tiên báo, bạn đọc sẽ càng bất ngờ, tò mò, thắc mắc, nóng lòng khám
phá tác phẩm.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi82
3.2.2.4. Quãng ngưng
Quãng ngưng hay còn gọi là “ giảm tốc”, “hãm lại”. Theo Manfred Jahn, đó
là “ trường hợp thời gian diễn ngôn của tình tiết dài hơn thời gian truyện của nó.
Làm chậm lại một hiện tượng hiếm có, (...) là cách thể hiện, đồng dạng của thời
gian chủ quan” [28;63]. Khi nhà văn miêu tả tập trung vào một nhân tố, tình tiết nào
đó, câu chuyện phải dừng lại làm chậm lại truyện kể, chìm vào tâm tình, triết lý
hay khơi sâu vào ý nghĩa cuộc đời. Lúc ấy sự chênh lệch giữa thời gian câu chuyện
và thời gian văn bản vô cùng lớn.
Trong “Báu vật của đời”, Mạc Ngôn đã chèn điểm nhìn tâm lý vào hành
động của nhân vật, làm chậm lại cảm giác và những đoạn tạt ngang để làm chậm lại
thời gian của truyện kể.
Mạc Ngôn đã làm gián đoạn thời gian sự kiện bằng cách miêu tả tâm lý kết
hợp với những liên tưởng và diễn giải của nhân vật. Tại các thời điểm trên trục thời
gian tuyến tính, tác giả sẽ tạo ra vô vàn các móc nối để phát triển đan cài các chi
tiết, hình ảnh, cảm giác, suy nghĩ. Dòng liên tưởng sẽ mở ra nhiều chiều kích hiện
thực khác khiến cho người đọc có những khám phá mới về tâm lý, tính cách nhân
vật. Khi Tiên Chim cùng thằng Câm cùng ra phố ăn mừng thắng lợi Nhật đầu hàng,
từ cái áo dài của Tiên Chim Kim Đồng liên tưởng đến cái áo dài của chị Lai Đệ, từ
cái áo dài của Lai Đệ, cậu nghĩ đến bầu vú của chị, từ bầu vú của chị, cậu nghĩ đến
bầu vú của Tiên Chim. Cậu đánh giá vú của Tiên Chim thuộc loại cấp cao. Từ bầu
vú của Tiên Chim, cậu suy nghĩ về cái đẹp của bầu vú. Mạch liên tưởng của Kim
Đồng đã phá vỡ mạch thẳng tắp của thời gian tuyến tính, thời gian bị kéo dãn, rẽ
nhánh.
Độc thoại nội tâm soi rõ tâm lý khó chịu và quyết tâm của Kim Đồng khi học
cách uống sữa dê bằng núm vú giả. Khi ngậm núm vú giả, cậu nghĩ đến bầu vú
tuyệt diệu của mẹ, lại nghĩ đến bầu vú căng phồng của con dê và cái cảm giác “tanh
tanh, lờm lợm trong miệng”. Cậu đếm từng ngụm sữa một, mỗi một ngụm sữa cậu
suy nghĩ đến từng thành viên trong gia đình đã yêu thương, vất vả vì cậu. Sự kiện83
Kim Đồng uống sữa bằng núm vú giả được kéo căng ra, tạo cảm giác cố gắng học
cách uống sữa mới một cách vất vả.
Điểm nhìn bên trong đã giúp người đọc thâm nhập vào suy nghĩ của Kim
Đồng về cuộc sống những ngày đã qua và tương lai sắp tới khi anh mãn hạn tù. Hay
khi Kim Đồng bị ốm được mẹ lau người cho, anh khoan khoái chìm vào trong
những âm thanh của vỏ chai, của các tinh cầu. Người đọc dường như cũng bị cuốn
vào dòng suy nghĩ, vào những cung bậc âm thanh ấy.
Điểm nhìn bên trong cho phép Kim Đồng phân tích, lựa chọn dáng đi khi
anh chuẩn bị lên lầu tìm Kim Một Vú. Trong đầu Kim Đồng hiện lên những hình
ảnh dáng đi khác nhau. Anh phân vân ngập ngừng hồi lâu mới quyết định một dáng
đi thích hợp cho mình. Dòng tâm trạng này đã cho thấy tâm lý nhút nhát, bạc nhược
của Kim Đồng.
Làm chậm lại cảm giác cũng là một trong những kỹ thuật đầy sáng tạo mà
Mạc Ngôn sử dụng làm chậm lại truyện kể. Vì thế sợi dây thời gian của mọi tình tiết
dù nhỏ nhất cũng được kéo căng ra. Được làm “Công tử Tuyết” trong phiên chợ
Tuyết của vùng Cao Mật, Kim Đồng đã sờ khoảng 120 cặp vú của những người phụ
nữ đến cầu tự ngày hôm đó và có những cảm nhận phong phú về chúng. “tui cảm
thấy chóng mặt qua hai bàn tay, luồng hơi ấm hạnh phúc khắp cơ thể tôi... Hai vú
mềm mại như đôi chim bồ câu chững lại một thoáng rồi tuột khỏi tay tôi” [34;366].
Cặp vú thứ hai “xinh xắn và rất đàn hồi, không mềm cũng không rắn, như chiếc
màn thầu mới ra lò, không nhìn rõ chúng nhưng tui đoán là chúng rất trắng, rất
mịn”. Cặp vú thứ ba lõng thõng như hai cái bị... tui sờ chúng, chúng không chịu,
kêu trong họng như con gà mái, mặt da nhăn lại. “Cặp vú thứ tư tính tình bạo liệt
như con diều hâu, lông cánh màu nâu, mỏ cứng, cổ ngắn và khỏe. Cái mỏ của chúng
cứ mổ mổ vào lòng bàn tay tôi. Bên trong cặp vú hình như có cả một tổ ong vò vẽ.
Tay tui vừa sờ vào, bên trong liền nổi lên tiếng vù vù. Do va đập vào lũ ong, nên bề
mặt của vú nóng hôi hổi. Tay tui rân rân như kiến bò. Cặp vú cuối cùng như một
con tê giác húc lung tung, hay như một con trâu rừng xông vào vườn rau, dẫm bẹp
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi84
tất cả”[34;367]. Và Kim Đồng nhớ lại những chuyện xung quanh chủ nhân của cặp
vú này.
Kim Đồng đã cho người đọc cảm nhận hình dáng, tình cảm và tính cách của
các bầu vú và của chủ nhân sở hữu chúng. Thời gian lúc này không được đo bằng
phút bằng giây nữa mà bằng thời gian cảm giác sờ từng cặp vú.
Khi miêu tả Thượng Quan Lỗ Thị dùng chày đập chết mẹ chồng, Trương Rỗ
dùng hai cái bánh bao làm mồi để “câu” được thân thể hoa khôi Kiều Kỳ Sa đang
cuồng dại vì đói, Mạc Ngôn cũng sử dụng kỹ thuật giảm tốc, hãm thời gian.
Ngoài việc chèn thêm điểm nhìn tâm lý vào hành động của nhân vật, làm
chậm lại cảm giác để kéo căng thời gian, Mạc Ngôn còn sử dụng những đoạn tạt
ngang để làm chậm lại thời gian truyện kể. Đó là trường hợp “ tạt ngang” nói về
Trương Thiên Tứ dẫn độ xác chết về quê nhà, Mã Sơn Nhân có tài phép bắt người
khác phải nghe lệnh.
Sử dụng các kỹ thuật làm ngưng đọng thời gian, nhân vật phá vỡ thời gian
câu chuyện, xoáy sâu ấn tượng vào sự kiện. Nội hàm của những sự kiện này: tốt đẹp
cao cả, bi hài được đẩy đến cực hạn tạo nên cảm xúc quá tải, cuồng nhiệt. Từ phong
cách tự sự cực hạn này có thể phát hiện được trầm tích văn hóa văn học của cổ kim,
đông tây trong tác phẩm của Mạc Ngôn, tạo cho ông bút lực mạnh mẽ có thể soi
thấu đến tận cùng những tính cách của nhân vật một cách quyết liệt và triệt để.
3.2.2.5. Dán ghép thời gian
Dán ghép là một kiểu kết cấu khá thông dụng trong sân khấu và điện ảnh thế
kỷ XX được các nhà văn vận dụng vào văn học. Với thủ pháp này, nhà văn có thể
xáo trộn các biến cố và lắp ghép chúng không theo trình tự thời gian, các biến cố xa
được đặt cạnh biến cố gần, hai câu chuyện của những nhân vật khác nhau lại được
đặt cạnh nhau và đồng thời với nó là sự di chuyển của các điểm nhìn. “Dán ghép
thời gian” cho phép người nghệ sĩ thể hiện những liên hệ cốt lõi, tuy không thể
nhìn thấy, giữa các hình tượng; nó cho phép người nghệ sĩ chiếm lĩnh thời gian
trong tính cách đa chất, đa tạp; mâu thuẫn, lưu luyến và thống nhất của nó [1;170].
Trong tiểu thuyết“Báu vật của đời”, Mạc Ngôn đã tạo nên những đứt gãy, gấp khúc
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top