tctuvan

New Member
Link tải miễn phí luận văn thạc sỹ
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Có thể nói, sự phát triển của khoa học công nghệ đã đem đến cho xã hội loài
người những thay đổi vượt qua sự tưởng tượng của chính những người phát minh ra
chúng.
Nhìn lại lịch sử phát triển của truyền thông đại chúng trên thế giới, từ góc độ
kênh truyền (channel), có thể thấy, mỗi một đột phá trong lĩnh vực công nghệ lại tạo
tiền đề phát triển một loại hình truyền thông mới. Và mỗi một loại hình truyền thông
mới ra đời lại tạo nên một cuộc cách mạng trong truyền thông đại chúng. Đây là thời
điểm mà các nhà truyền thông cần cẩn trọng nghiên cứu về bối cảnh truyền thông
đương đại và nhận định về các xu hướng phát triển trong tương lai.
Các nghiên cứu này bao gồm các đánh giá về sự tác động của loại hình truyền
thông mới đến các nhóm công chúng: Quan điểm, thái độ của công chúng đối với loại
hình truyền thông mới, loại hình truyền thông mới có ảnh hưởng thế nào tới quan
điểm, thái độ và thói quen tiếp nhận của công chúng đối với các loại hình truyền thông
ra đời trước đó. Bên cạnh đó, còn là các đánh giá quan trọng về sự tương tác giữa các
loại hình truyền thông với nhau, và sự tương tác giữa các loại hình truyền thông với
các bên liên quan khác (ví như các công ty nghiên cứu và sản xuất công nghệ), trong
một “cuộc chạy marathon” mà đích đến cuối cùng là công chúng.
Tại thời điểm truyền hình ra đời và phát triển nở rộ từ sau Đại chiến Thế giới
lần thứ hai, không ít người hồi hộp chờ đợi sự kết thúc của phát thanh. Nhưng cho tới
nay, phát thanh vẫn tồn tại và định hình con đường phát triển của mình theo hướng
chuyên biệt hóa và phục vụ cho một xã hội di động và dường như, đang ngày càng cô
đơn. Đến khi mạng internet xuất hiện và phát triển bùng nổ, người ta lại e sợ cho sự
phát triển của các loại hình truyền thông cũ, đặc biệt là nghi ngờ về sự tồn tại của báo
in. Trong thời đại số, khi mà, chỉ với một click chuột truy cập vào mạng internet là có
thể biết được mọi tin tức trên toàn cầu, một cách nhanh chóng và hầu như miễn phí, thì
liệu sẽ còn ai bỏ tiền ra mua báo in? Nhưng thực tế, sau hai chục năm mạng internet
phát triển như vũ bão, thì tới nay, báo in vẫn tồn tại, mặc dù doanh thu từ báo in được
ghi nhận là đang giảm sút. Nhưng câu chuyện về mạng internet liệu có đơn thuần là câu chuyện về một
loại hình truyền thông mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và lấn
lướt các loại hình truyền thông cũ, giống như câu chuyện của phát thanh hay truyền
hình lúc mới ra đời? Hay câu chuyện này còn nhiều lớp lang ý nghĩa khác? Cho tới
nay, các nhà nghiên cứu truyền thông vẫn hồ nghi, đặt câu hỏi và đang nỗ lực để trả
lời.
Thực tế là trước khi mạng internet ra đời, mô thức truyền thông cũ chủ yếu là
tuyến tính, một người –tới – nhiều người (one – to – many), với vai trò hầu như cố
định của người gửi thông điệp và người nhận thông điệp. Mạng internet ra đời đã phá
vỡ mô hình tuyến tính đó và đưa tất cả vào không gian đa chiều, nơi mà người nhận
thông điệp có thể trở thành người gửi thông điệp và người gửi thông điệp cũng trở
thành người nhận thông điệp (many – to – many), nơi mà buộc người ta phải hồ nghi
và xem xét lại tất cả các định nghĩa cơ bản vốn đã được nhất trí, như “truyền thông”,
“nhà báo” hay “công chúng”, nơi là điểm tích hợp của ngày càng nhiều các thiết bị
công nghệ hiện đại, để rồi từ đó, chúng ta có báo trực tuyến, phát thanh trực tuyến hay
truyền hình trực tuyến.
Câu chuyện về mạng internet rộng hơn nhiều một câu chuyện về công nghệ hay
câu chuyện về một loại hình báo chí mới. Nhưng xuất phát điểm không thể phủ nhận
của nó là từ công nghệ, với sự ra đời của world wide web. Không phải ngẫu nhiên mà
quan điểm “phương tiện là thông điệp” của Marshall McLuhan (1964) đến nay vẫn
khiến các nhà nghiên cứu suy tư, hay ít ra, là đọc được từ đó nhiều gợi ý sâu sắc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đặt giả thuyết và nỗ lực kiểm chứng sự tác
động của internet tới thói quen tiếp nhận của công chúng. Sự ra đời và phát triển của
mạng internet đã hình thành nên một thế hệ công chúng với những đặc trưng khác biệt
về thói quen và nhu cầu tiếp nhận các sản phẩm truyền thông đại chúng, so với các thế
hệ trước đó. Tác giả luận văn này chọn cách gọi nhóm công chúng chuyên biệt này là
công chúng thế hệ Net, để nhấn mạnh tới sự ảnh hưởng sâu sắc của loại hình truyền
thông qua công nghệ internet tới mô thức tiếp nhận của nhóm công chúng này. Don
Tapscott được coi là người đầu tiên giới thiệu thuật ngữ Net Generation (thế hệ Net),
trong cuốn sách viết năm 1997 của ông, Growing up digital: The rise of the Net generation (Lớn lên cùng công nghệ số: Sự vươn lên của thế hệ Net). Thuật ngữ này
sau đó được sử dụng lại trong nhiều nghiên cứu về nhóm công chúng trẻ.
Việt Nam chính thức hòa mạng thế giới vào năm 1997. Sau mười bốn năm phát
triển, với khoảng 1/3 dân số cả nước sử dụng mạng internet, có thể nói, cho tới nay,
mạng internet tại Việt Nam tương đối bắt nhịp so với thế giới. Và năm 2011, lần đầu
tiên Việt Nam lọt vào danh sách 20 quốc gia có số lượng người sử dụng mạng internet
lớn nhất thế giới (thứ 19) [67]. Nhưng, cho tới nay, hầu như chưa có công trình nghiên
cứu nào về thế hệ Net tại Việt Nam, và từ góc độ truyền thông đại chúng thì mới chỉ
có một vài công trình nghiên cứu về nhóm công chúng thanh niên. Ngoài ra là một số
nghiên cứu về nhóm công chúng này của các công ty nghiên cứu thị trường, dưới góc
độ marketing.
Vậy, công chúng thế hệ Net tại Việt Nam có diện mạo như thế nào? Với quan
điểm, thái độ và thói quen tiếp nhận các sản phẩm truyền thông đại chúng ra sao? Sự
ảnh hưởng của mạng internet tới thói quen tiếp nhận của nhóm công chúng này đối với
các loại hình truyền thông truyền thống (báo in, phát thanh, truyền hình) như thế nào?
Đây đều là những tri thức cần thiết để các loại hình truyền thông cũ có thể xây dựng
kênh truyền thông chuyên biệt nâng cao chất lượng phục vụ cho nhóm công chúng này
trong bối cảnh mạng internet đã và đang chứng tỏ là sức hấp dẫn mạnh mẽ của mình
với nhóm công chúng này; và đang phát triển nhanh chóng về cả chiều rộng lẫn chiều
sâu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về lịch sử nghiên cứu thế hệ Net trên thế giới: Kể từ khi mạng internet ra đời và
phát triển, đã có rất nhiều các nghiên cứu về sự tác động của mạng internet tới công
chúng truyền thông, đặc biệt là tới thế hệ trẻ ngày nay. Điểm khác biệt dễ thấy nhất ở
thế hệ này so với các thế hệ trước đó là: Phần lớn thế hệ này lớn lên, hay sinh ra và
lớn lên, cùng sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ - mà trung tâm của cơn
bão phát triển đó là mạng internet kết nối toàn cầu.
Cho tới nay, đã có rất nhiều thuật ngữ được các nhà nghiên cứu dùng để miêu tả
nhóm công chúng sinh ra và trưởng thành cùng sự phát triển của mạng internet. Một
vài thuật ngữ phổ biến nhất là Millennials Generation – thế hệ Thiên niên kỉ (Howe và Strauss, 1991), Net Generation hay Net Gen – thế hệ Net (Don Tapscott, 1998),
Generation Y – thế hệ Y (Oblinger và Oblinger, 2005) và Digital Natives – hàm chỉ về
những người sinh ra trong thế giới công nghệ số (Marc Prensky, 2001). Mỗi một cách
gọi thể hiện góc độ tiếp cận của nhà nghiên cứu. Nếu Howe và Strauss nhấn mạnh về
một thế hệ được sinh ra và lớn lên tại giao thời của hai thiên niên kỉ, Oblinger và
Oblinger nhấn mạnh sự tiếp nối của thế hệ mới này với thế hệ X trước đó, thì Don
Tapscott và Marc Prensky nhấn mạnh tới sự tác động mạnh mẽ của công nghệ số tới
thế hệ này. Và đặc biệt, Tapscott đã dùng chính tên gọi internet – công nghệ số đã tiến
hành cuộc cách mạng trong đời sống nhân loại trong hai thập niên trở lại đây, làm tên
gọi cho cả một thế hệ. Don Tapscott được coi là người đầu tiên giới thiệu thuật ngữ
Net Generation (thế hệ Net), trong cuốn sách xuất bản năm 1998 của ông, Growing up
digital: The rise of the Net generation (Lớn lên cùng công nghệ số: Sự vươn lên của
thế hệ Net).
Theo cuốn Grown up digital: How the Net generation is changing your world
(Trưởng thành cùng công nghệ số: Thế hệ Net đang thay đổi thế giới của bạn ra sao)
của Don Tapscott, 2008, cơ cấu dân số Mỹ từ năm 1946 tới nay như sau:
- Thế hệ Baby Boom (những người sinh từ tháng 1/1946 tới tháng 12/1964),
chiếm 23% dân số Mỹ. Đây là thế hệ được sinh ra bởi bố mẹ là những người sống sót
sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai.
- Thế hệ X (sinh từ tháng 1/1965 tới tháng 12/1976), chiếm 15% dân số Mỹ.
- Thế hệ Net (sinh từ tháng 1/1977 tới tháng 12/1997), chiếm 27% dân số Mỹ.
- Thế hệ Next (sinh từ tháng 1/1998 tới 2008), chiếm 13.4% dân số Mỹ
Tapscott còn gọi thế hệ thứ nhất, Baby Boom, là thế hệ Tivi (Tivi Generation)
như một cách để nhấn mạnh tới ảnh hưởng sâu sắc của ti vi tới thế hệ công chúng này.
Tại đây, chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng từ quan điểm của Marshall McLuhan.
McLuhan cũng từng đề cập đến thế hệ những người chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ ti
vi (thập niên 50 và 60 của thế kỉ trước), và ông gọi đó là thế hệ hậu văn tự
(postliterate) đầu tiên của một thời đại hậu văn tự - nơi mà vai trò của văn tự ngày
càng yếu đi và dần nhường chỗ cho các cấu trúc phi văn tự. Và thế hệ này cho thấy những khả năng truyền đạt và cảm nhận mà các thế hệ trước đó, trong thời đại của
công nghệ ấn loát, không thể có được.
Đến lượt mình, Tapscott gọi thế hệ Net là thế hệ toàn cầu (global generation)
đầu tiên. Phần trăm dân số của thế hệ này cũng tương đối khác nhau tại mỗi quốc gia.
Các quốc gia có phần trăm dân số thuộc thế hệ Net đông nhất thế giới bao gồm Mỹ,
Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil. Nghiên cứu về thế hệ Net do Don Tapscott đứng đầu
thuộc một dự án nghiên cứu trị giá 4 triệu USD. Năm 2007, nhóm của Tapscott đã tiến
hành phỏng vấn 5935 người thuộc thế hệ Net, tuổi từ 15 tới 29 tại 12 quốc gia là Mỹ,
Canada, Anh, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Mexico, Brazil, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản
và Ấn Độ. Bên cạnh đó, nhóm cũng nghiên cứu mẫu đối sánh thuộc nhóm tuổi từ 30
tới 41 (thế hệ X) và nhóm tuổi từ 42 tới 61 (thế hệ Baby Boom) tại Mỹ và Canada.
Theo kết quả của nghiên cứu này thì có nhiều sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa
những người thuộc thế hệ Net được nghiên cứu tại 12 quốc gia. Ví dụ, thế hệ Net có
xu hướng tìm đến tự do trong tất cả những việc họ làm, từ tự do lựa chọn đến tự do thể
hiện, và họ ưa thích cá nhân hóa (personalize), đặc biệt là đối với các sản phẩm truyền
thông đại chúng.
Lý giải cho sự hình thành thế hệ toàn cầu đầu tiên – thế hệ Net, Don Tapscott
cho rằng, nguyên nhân căn bản nằm ở sự ra đời và phát triển như vũ bão của mạng
internet toàn cầu. Tapscott cũng cho rằng, mặc dù dân số trẻ (bao gồm thế hệ Net) tập
trung đông nhất tại phương Đông, song, văn hóa đại chúng phương Tây, vốn được
“xuất khẩu” qua các kênh truyền thông đại chúng, đặc biệt qua mạng internet, mới là
yếu tố ảnh hưởng chủ yếu tới thế hệ Net toàn cầu. Nhìn chung, Don Tapscott cho rằng
mặc dù các quốc gia và các khu vực vẫn có những đặc điểm văn hóa khác biệt, song,
càng ngày giới trẻ trên thế giới càng trở nên giống nhau ở tần suất sử dụng, sự thành
thạo các loại công nghệ số cũng như quan điểm về các phương tiện truyền thông đại
chúng (khi được hỏi Bạn thà sống thiếu ti vi hay mạng internet?, tại cả 12 nước được
khảo sát, phần lớn người được hỏi lựa chọn có thể sống thiếu ti vi). [65, pg.43]
Quan điểm của Tapscott được một số nhà nghiên cứu khác chia sẻ, bao gồm
Marc Prensky. Trong nghiên cứu năm 2001 của mình, Prensky đặc biệt lưu ý về sự
ảnh hưởng của các công nghệ mới trong đời sống giới trẻ hiện nay. Thậm chí, các công nghệ mới đã trở thành một nét tính cách đặc trưng của giới trẻ mà thông qua đó
có thể đoán định về những thay đổi cơ bản trong cách thức giới trẻ giao tiếp, hòa nhập
xã hội, sáng tạo hay học tập. Điều này còn thực sự có ý nghĩa từ góc độ giáo dục.
Prensky gọi thế hệ trẻ là Digital Natives – tức là “những người bản địa” trong thế giới
số, am hiểu thứ ngôn ngữ của máy tính, trò chơi điện tử và mạng internet” và Prensky
gọi những người sinh ra trước kỉ nguyên số (vốn bắt đầu khoảng từ thập niên 80 của
thế kỉ trước) là Digital Immigrants – tức là “những người nhập cư” vào thế giới số, có
thể học để sử dụng các công nghệ mới nhưng dù sao vẫn thuộc về thế hệ cũ và không
thể hoàn toàn am hiểu công nghệ như “những người bản địa”. Prensky so sánh với sự
khác biệt như khi học một ngoại ngữ với việc là người bản địa và nói tiếng mẹ đẻ. [55]
Trong khi đó, một số công trình nghiên cứu khác lại đặt giả thuyết và chứng
minh rằng thế hệ Net không đơn thuần tập hợp những đặc điểm tương đồng trên diện
rộng trong cách thức sử dụng công nghệ số và các loại hình truyền thông mới. Ví dụ,
nghiên cứu của Carmel McNaught, Paul Lam và Annisa Ho (2009) đã chỉ ra những
khác biệt đáng chú ý trong kinh nghiệm sử dụng công nghệ giữa các sinh viên và cán
bộ của trường đại học Hong Kong, Trung Quốc [46]. Một nghiên cứu khác do nhóm
của Gregor Kennedy tiến hành (2008) tại ba trường đại học của Australia cũng cho
thấy một vài khác biệt tương tự. [40]
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu đã cùng lúc xem xét nhiều yếu tố
trong việc định hình cách thức giới trẻ sử dụng các phương tiện truyền thông số và các
công nghệ mới. Cuộc điều tra của Rolf Schulmeister (2008) với 2098 sinh viên tại
châu Âu đã gợi ý về sự tồn tại của các phân nhóm (sub-group) trong số những người
tham gia khảo sát và các phân nhóm này có các xu hướng khác nhau trong việc sử
dụng các phương tiện truyền thông số [72]. Schulmeister nhấn mạnh rằng cần phải
xem xét kĩ bản chất của việc sử dụng công nghệ trong giới trẻ. Cũng Schulmeister sau
đó (2009) đã kết luận rằng các nghiên cứu về việc sử dụng các phương tiện truyền
thông có xu hướng nhấn mạnh tới tính đa dạng trong các phân nhóm người sử dụng.
[60]
Một trong những nghiên cứu thực chứng gần đây, Chris Jones and Anesa
Hosein (2010) đã phát hiện ra rằng dù độ tuổi là một yếu tố ảnh hướng tới cách thức sử
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top