connie_leong

New Member
Download Đánh giá về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 miễn phí

Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003


Trịnh Tiến Việt – Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội

Việc nghiên cứu chứng cứ nói chung, nguồn chứng cứ nói riêng trong vụ án hình sự có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Tuy nhiên, về phương diện lập pháp tố tụng hình sự, khái niệm chứng cứ đã được nhà làm luật nước ta ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự(BLTTHS) năm 1988 và năm 2003 nhưng khái niệm nguồn chứng cứ lại chưa được ghi nhận mà mới đề cập cụ thể đến các loại nguồn chứng cứ. Mặc dù vậy, nếu khái niệm chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án (khoản 1 Điều 64), thì khái niệm nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng để rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự.

Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự được sử dụng làm phương tiện duy nhất để chứng minh tội phạm, làm rõ các tình tiết của vụ án. Cho nên, chứng cứ được sử dụng trong vụ án hình sự phải bảo đảm đầy đủ ba thuộc tính quan trọng sau, đó là tính khách quan (1), tính liên quan (2) và tính hợp pháp (3)[1].

Tuy nhiên, riêng về tính hợp pháp, chứng cứ bắt buộc phải được rút ra từ một trong những nguồn và được thu thập bằng biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định. Nguồn chứng cứ là cơ sở chứa đựng tất cả dấu vết, tài liệu, hình ảnh…[2] nói chung là những đặc điểm liên quan đến vụ án hình sự để từ đó chứng cứ được hình thành và mang giá trị chứng minh. Pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định chặt chẽ về nguồn chứng cứ, do vậy những chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra không được rút ra từ nguồn chứng cứ thì không được coi là chứng cứ, hay nói cách khác nó không có giá trị chứng minh.

Về nguồn chứng cứ, khoản 2 Điều 64 BLTTHS năm 2003 quy định:

“Chứng cứ được xác định bằng:

a) Vật chứng;

b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

c) Kết luận giám định;

d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.

Theo đó, từ những nguồn chứng cứ này mà các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xác định được chứng cứ và sử dụng nó nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan để giải quyết vụ án.

Như đã nêu trên, chứng cứ trong vụ án hình sự là những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự mà dựa vào nó, các cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, mức độ, tính chất hành vi và từ những tình tiết khác liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Còn nguồn chứng cứ là hình thức, nơi chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự hay là “nơi, từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh”[3]. Nói một cách khác, chứng cứ là nội dung phản ánh sự việc, hiện tượng vụ án còn nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng các nội dung bên trong nó. Ví dụ: lời khai của người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự… là nguồn chứng cứ, còn những thông tin, tình tiết chứa trong lời khai đó mới là chứng cứ. Cho nên, nội dung không thể tồn tại độc lập riêng biệt mà nó phải được chứa đựng, nằm trong một hình thức nhất định. Do đó, việc làm rõ khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ, cũng như làm sáng tỏ các loại nguồn chứng cứ có ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng để giải quyết vụ án hình sự được khách quan, chính xác và đúng pháp luật mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.

1. Vật chứng. Vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng đầu tiên mà thông qua nó các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chứng minh được sự việc hay xác định hướng điều tra. Theo Điều 74 BLTTHS năm 2003, vật chứng được hiểu là “những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và những vật khác có giá trị tội phạm và người phạm tội”. Với quy định trên, vật chứng có một số đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, vật chứng là vật cụ thể, tồn tại dưới dạng vật chất, nó có thể thể hiện dưới dạng thể rắn, thể lỏng và thể khí. Sự thể hiện của vật chứng rất phong phú với đủ hình dạng, kích cỡ, trọng lượng, màu sắc… song một điều cơ bản là để những vật thể đó trở thành chứng cứ thì nó phải liên quan đến vụ án hình sự.

Thứ hai, vật chứng chứa đựng và phản ánh trong mình những sự kiện thực tế liên quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng quan trọng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể của vụ án hình sự và bao gồm những điển hình sau:

a) Vật chứng là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Đây là những vật mà người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đã sử dụng chúng để hỗ trợ quá trình thực hiện tội phạm để góp phần hoàn thành nhanh chóng và thuận lợi hơn. Ví dụ: dùng dao, súng, rìu để giết người, dây thừng, dây dù để thắt cổ, thuốc độc để đầu độc…

b) Vật chứng là những vật mang dấu vết tội phạm. ở đây, vật chứng thể hiện bằng những dấu vết mà người phạm tội đã để lại trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội (hiện trường) và dấu vết này được gọi là dấu vết hình sự. Dấu vết hình sự là “những phản ánh của các sự vật, hiện tượng để lại trong quá trình thực hiện tội phạm”[4]. Ví dụ: trộm cắp tài sản để lại dấu vết phá khóa, cạy tủ hay quần áo, hung khí của người phạm tội có dính máu của nạn nhân…

c) Vật chứng là đối tượng của tội phạm mà người phạm tội tác động đến. Ví dụ: tài sản (xe máy, dây chuyền, đồng hồ…) trong các tội chiếm đoạt tài sản, hàng hóa trong tội buôn lậu…

d) Vật chứng là tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Ví dụ: đồ trang sức, tiền bạc trên chiếu bạc, đồ vật mà người phạm tội đã mua sắm được bằng tài sản do chiếm đoạt của người khác, quần áo, giầy dép, mũ của người phạm tội tại hiện trường nơi xảy ra vụ án…

Thông thường, vật chứng được thu thập khi phát hiện ra tội phạm bằng những hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (ví dụ như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám đồ vật, khám nhà…), nhưng nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc thu thập chứng cứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại hay bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cung cấp.

Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, nó ghi nhận chính xác những sự kiện thực tế của vụ án nên giá trị chứng minh của nó trong vụ án hình sự có thể là rất cao “và trong nhiều trường hợp, không có gì có thể thay thế được chúng”[5]. Với đặc tính là vật duy nhất, vật chứng tồn tại một cách khách quan, nó lưu giữ các hình ảnh xảy ra trong hiện thực bởi vậy, nó không thể thay thế được bằng bất cứ vật thể nào khác. Nói một cách khác, vật chứng là chứng cứ mang tính vật chất, nó tồn tại độc lập, khách quan và không bị chi phối bởi ý thức chủ quan của con người.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

hoangxuanthinh

New Member
Re: [Free] Đánh giá về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

cho mình xin bài này

[ Post bai thong qua Mobile ]
 

tctuvan

New Member
Re: [Free] Chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

Link mới cập nhật, mời bạn xem lại bài đầu để tải nhé
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn Luận văn Luật 0
F Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. Luậ Luận văn Luật 0
P Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự : Luận văn ThS. Luật: 60 38 Luận văn Luật 2
N Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm Luận văn Luật 3
Z Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
K Tiểu luận: chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự Luận văn Luật 2
P Quy định của pháp luật hiện hành về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh Tài liệu chưa phân loại 2
P [Free] Tiểu luận Thu thập chứng cứ ở nước ngoài và ủy thác quốc tế Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Tài liệu chưa phân loại 0
A [Free] Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong hoạt động đánh giá và nghiên cứu chứng cứ Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top