pe_pe

New Member

Download miễn phí Đề tài Giải pháp cho nguồn lao động Việt Nam





 Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp ở nhiều vùng miền với nhiều loại hình trường học với số lượng học sinh ngày càng tăng: Năm học 2004-2005, cả nước có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học tại 37000 cơ sở giáo dục – đào tạo. Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cao. Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, các dự án ODA trong giáo dục và đào tạo cũng góp phần cho giáo dục cơ bản phát triển , nguồn vốn được triển khai hàng năm lên tới hàng trăm triệu USD. Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt “Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn” với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Dự án đã được triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40 tỉnh trong cả nước với gần 15000 trường học. Đồng thời với mục tiêu trọng tâm là dạy nghề cho lực lượng lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống các trường đào tạo nghề sẽ được đàu tư nâng cấp dần lên ngang tầm với khu vực và quốc tế. Dự kiến sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10 trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn này.





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


an điểm của em, em chia nguồn nhân lực thành 3 thành phần: nguồn nhân lực sơ cấp, nguồn nhân lực trung cấp và nguồn nhân lực cao cấp và đánh giá trên 2 khía cạnh: số lượng, chất lượng, về chất lượng thì chủ yếu xem xét về mặt: trình độ chuyên môn và kỹ năng của người lao động.
3.1. Nguồn lao động sơ cấp dồi dào nhưng chất lượng thấp.
Nguồn lao động sơ cấp (lao động phổ thông) là nguồn lao động chưa qua đào tạo hay đào tạo ở các trường trung học dạy nghề, các trường trung cấp.
Nguồn lao động này khá đông đảo, chiếm khoảng 4/5 nguồn lao động trong cả nước và tập trung chủ yếu ở nông thôn. Tính đến ngày 1/7/2005 thì có khoảng 33,289 triệu người chiếm khoảng 75% tổng số lao động trong cả nước và ở tất cả các vùng lãnh thổ đều cao
Biểu 3: Số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế chia theo vùng lãnh thổ
Đơn vị: người
Vùng lãnh thổ
Chung
Trong đó : % ở nông thôn
Số lượng
%
1. Đồng bằng sông Hồng
9947755
22,41
78,27
2. Đông bắc
5232632
11,79
82,45
3. Tây bắc
1406963
3,17
88,22
4. Bắc trung bộ
5339331
12,03
44,37
5. Duyên hải Nam trung bộ
3670258
8,27
71,43
6. Tây nguyên
2485712
5,60
73,24
7. Đông nam bộ
6783882
15,28
47,68
8. Đồng bằng sông Cửu long
9518499
21,44
80,41
Cả nước
44385032
100
75
Nguồn: Tính toán từ ”Báo cáo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2005 ”
Về trình độ chuyên môn, nguồn lao động sơ cấp được đánh giá có trình độ chuyên môn thấp. Nguồn lao động này khi lên thành phố chủ yếu làm trong các ngành xây dựng, dệt may, giầy da, chế biến v..v… Theo tính toán từ ”Báo cáo kết quả lao động- việc làm 1/7/2005” thì ở nước ta chỉ có 15,22% có chứng chỉ và có bằng công nhân kĩ thuật, 4,3% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Trong khi nguồn lao động sơ cấp chiếm hơn 80% thì tỷ lệ lao động được qua đào tạo như trên là quá thấp. Phần lớn những lao động này tự học nghề qua sự chỉ bảo của một người lao động khác, do đó trình độ tay nghề thường không cao, không được đào tạo bài bản nên dễ mắc sai lầm và ít có những sáng tạo trong công việc.
Do những người lao động này thứ nhất là không có bằng cấp, trình độ chuyên môn thấp lại chủ yếu làm việc theo thời vụ nên tiền công của họ khá rẻ mạt và thường được tính lương theo lương khoán, theo ngày hay theo sản phẩm. Ví dụ ở công ty cổ phần xây dựng Vinaconex I mức lương ngày này nằm vào khoảng 50-60 nghìn/ ngày, còn về lương khoán thì tuỳ theo công việc: đào đất khoảng 30 nghìn/m3, xây gạch khoảng 100 nghìn/m2, trát là 10 nghìn/m2 v..v…Những người lao động này chỉ một phần rất nhỏ được ký hợp đồng lao động còn lại phần lớn là không có hợp đồng lao động hay chỉ kí trong 3 tháng. Có một người lao động đã nói: ” Có những năm chúng tui kí tới 4 hợp đồng lao động có thời hạn 3 tháng “. Theo khảo sát tại một công ty xây dựng hiện có 914 công nhân thì chỉ có 11 người có hợp đồng lao động. Chính vì vậy mà phần lớn trong những người lao động này không được đóng bảo hiểm xã hội. Đây chính là thiệt thòi lớn nhất của họ, một khi có ốm đau bệnh tật, tai nạn lao động họ không có bảo hiểm để thanh toán các khoản chi phí hay có bất kì một hộ trợ nào. Thông thường, khi xảy ra tai nạn lao động ở các công trường xây dựng thì người chủ thầu sẽ cho công nhân một khoản tiền nhỏ gọi là hỗ trợ sau đó không có thêm bất cứ một trách nhiệm nào nữa. Trường hợp này đã xảy ra đối với một công nhân chuyển gạch người Thanh Hóa, khi bị gạch trên giàn giáo rơi vào người dẫn tới tử vong thì gia đình người công nhân này chỉ nhận được một khoản tiền là 3 triệu đồng từ chủ công trình bởi mặc dù đã làm cho công trình này được 6 tháng nhưng người lao động này vẫn không có hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, hầu như không có một công ty nào tổ chức được chổ ăn ở cho công nhân. Họ phải thuê ngoài với giá đắt đỏ, với những khu nhà trọ tồi tàn, ẩm thấp, môi trường nước ở những nơi này bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tiền lương ít ỏi, điều kiện sống không đảm bảo trong khi họ phải làm việc từ 10-12 tiếng một ngày, đặc biệt có những công nhân da giày có khi là từ 14-16 tiếng mà không biết đến bất kì một khái niệm nào là chế độ làm thêm giờ hay lương làm thêm giờ như quy định của nhà nước. Bên cạnh đó có những trường hợp người lao động Việt Nam làm việc cho công ty có vốn đầu tư nước ngoài bị xúc phạm đến thân thể và nhân cách. Cách đây vài năm có một công ty may tại Bình Dương đã xảy ra vụ bắt người lao động quỳ dưới nắng. Tình trạng trên không chỉ tồn tại ở các công ty tư nhân, ở các công ty liên doanh với nước ngoài mà thậm chí trong doanh nghiệp nhà nước cũng xảy ra. Liệu có thể khẳng định rằng: Nguồn lao động sơ cấp ở Việt Nam đang bị sử dụng theo kiểu ”Vắt chanh bỏ vỏ” hay không?
3.2. Nguồn lao động trung cấp vừa thiếu lại vừa thừa.
Nguồn lao động trung cấp là những người lao động đã được đào tạo cao đẳng, đại học và trên đại học nhưng chưa đạt đến trình độ ngành nghề và kĩ năng làm việc ở trình độ cao. Đây là nguồn nhân lực quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Tình đến năm 2005, tỷ lệ người lao động đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học ở nước ta là 5,27%. Đặc điểm của nguồn lao động này là có trình độ học vấn, có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo, dễ dàng tiếp thu khoa học công nghệ.
Hàng năm, chỉ tính riêng ở Hà Nội cũng có khoảng 25 nghìn sinh viên ra trường bổ sung vào lượng lực lao động của đất nước. Thế nhưng sinh viên ra trường có đến 40% làm trái ngành, trái nghề. Tỷ lệ thất nghiệp chung trong cả nước là 2,09%, riêng khu vực thành thị là 5,31%. Tại sao lại có hiện tượng này? Có nhiều ý kiến cho rằng, lực lượng lao động của nước ta hàng năm có tăng về số lượng nhưng chất lượng lại không tăng nên xảy ra hiện tượng nguồn nhân lực dồi dào, nhiều người thất nghiệp trong khi các doanh nghiệp vẫn kêu thiếu.Theo anh Lữ Thành Long- Giám đốc công ty cổ phần Misa, các bạn sinh viên mới ra trường kinh nghiệm đã ít mà trình độ chuyên môn lại quá yếu không đáp ứng được yêu cầu của công việc, có những bạn ra trường với tấm bằng khá, giỏi trong tay như khi bảo đánh một thông báo mà các bạn còn sai về quy cách, kĩ năng giao tiếp lại kém mà chúng tui lại không muốn nhận “những chú gà công nghiệp”. Việc người lao động không đáp ứng được yêu cầu của công việc theo anh Long là do: Hiện giờ đang có hiện tượng chạy theo bằng cấp mà chưa chú trọng học cho mình lấy một cái nghề cho giỏi, cho tốt. Đúng là khi mà nhìn vào hồ sơ của các ứng viên khi tuyển dụng các nhà tuyển dụng đều thấy hồ sơ của ai cũng chứng chỉ tiếng anh loại A, B chứng chỉ tin học loại khá giỏi nhưng khi kiểm tra thì không giao tiếp được, Word Excel thì không thành thạo. Nhiều nhà tuyển dụng từng nói rằng: mất lòng tin vào ứng viên của mình. Có một câu chuyện do anh Phùng Thanh Giang hiện là Giám đốc trung tâm marketing sáng tạo của Công ty cổ phần phát triển trí tuệ Việt Nam kể: Khi tham gia phỏng vấn để vào chức vụ này anh cùng với một ứng viên nữa đã lọt được vào vòng...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
T [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Đống Luận văn Kinh tế 0
K [Free] Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch I ngân h Luận văn Kinh tế 0
L [Free] Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
M [Free] Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Luận văn Kinh tế 0
N [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát tri Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triể Luận văn Kinh tế 0
C [Free] Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân Luận văn Kinh tế 0
P [Free] Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Luận văn Kinh tế 0
P [Free] Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tại ngân hàng đầu tư phát triển nông thôn Hà Tây Luận văn Kinh tế 0
A [Free] Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung- Dài hạn tại Chi nhánh ngân hàng đầu tư p Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top