nam77trung

New Member
Chức năng của CPU : là bộ vi xử lý trung tâm, được coi như bộ não của chiếc máy vi tính. có rất nhiều mạch vào( input) để nhận các lệnh điều khiển đưa vào, sau khi xử lý các thông tin đó và kết hợp với các lệnh mặc định đã được cài đặt sẵn, sẽ tạo ra các lệnh điều khiển (out put) dẫn đến mọi nơi để quản lí toàn bộ chiếc máy tính.


bộ nhớ RAm: là tập hợp các ô nhớ, mỗi ô nhớ có 1 địa chỉ xác định, mỗi ô nhó là một byte. thời gian truy cập vào mỗi ô nhớ là như nhau lên gọi đây là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên.

chúc năng chính của RAM là để lưu tam thời các dữ liệu được nạp vào máy và khi mất điện thì no sẽ mất tất cả dư liệu, nhưng RAm lại giữ vai trò làm cho máy hiển thị màn hình, ví dụ khi khe RAm bị bẩn thì có làm cho màn hình không lên. bạn không tin thì cứ làm thử coi.và RAm cũng giúp CPU truy cập dữ liệu nhanh hơn. àh bạn có biết vì sao RAM lại được gọi là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên không? như trên mình đã nói vì do thời gian truy cập vào mỗi ô nhớ là như nhau đó, tức là trong RAM có nhiều ô nhớ mỗi ô nhớ là 1byte(8bit), và dữ liệu được lưu bất kì ô nhớ nào trong RAm mà không cần tuân theo tuần tự.


Mainboard của máy tính có các chức năng sau đây : Là bản mạch chính liên kết tất cả các linh kiện và thiết bị ngoại vi thành một bộ máy vi tính thống nhất . Điều khiển tốc độ và đường đi của luồng dữ liệu giữa các thiết bị trên . Điều khiển điện áp cung cấp cho các linh kiện gắn chết hay cắm rời trên Mainboard . Mainboard có 2 IC quan trọng là Chipset cầu bắc và Chipset cầu nam, chúng có nhiệm vụ là cầu nối giữa các thành phần cắm vào Mainboard như nối giữa CPU với RAM, giữa RAM với các khe mở rộng PCI v v...


Bàn phím là thiết bị nhập thông tin vào cho máy tính xử lý, thông tin từ bàn phím là các ký tự, số và các lệnh điều khiển./ chuột: là thiết bị trỏ trên màn hình, chuột xuất hiện trên màn hình với giao diện đồ họa, các trình điều khiển chuột thường được tích hợp trong các hệ điều hành.


Màn hình máy tính sẽ cho ta thấy những ký tự mà ta gõ trên bàn phím hay các thông điệp từ máy tính. Việc kết xuất dữ liệu ra màn hình là nhanh chóng nhưng là một sự sao chép không mang tính lưu trữ mà thiên về thông báo/ máy in được gắn với máy tính sẽ là thiết bị xuất có giá trị lưu trữ bởi các bản in ra giấy/. Âm thanh: máy tính không chỉ xuất ra nhưng gì để thấy mà còn xuất ra âm thanh để nghe


Lưu trữ dữ liệu máy tính hay thường gọi là lưu trữ hay bộ nhớ là khái niệm chỉ các cấu kiện máy tính, thiết bị và các phương tiện ghi/chứa dữ liệu cho phép lưu trữ dữ liệu số sử dụng trong tính toán trong một khoảng thời gian nhất định. Lưu trữ dữ liệu đóng một trong các chức năng chính của tính toán hiện đại: lưu giữ thông tin. Lưu trữ là một cấu phần cơ bản của tất cả hệ thống tính toán hiện đại. Lưu trữ và bộ xử lí trung tâm (CPU) là mô hình máy tính cơ bản kể từ những năm 1940.

Trong ngôn ngữ hiện đại bộ nhớ thường được hiểu là một dạng lưu trữ sử dụng chất bán dẫn cho phép truy cập ngẫu nhiên với tốc độ cao nhưng thường là lưu trữ tạm thời (RAM). Tương tựlưu trữ thường chỉ tới các phương tiện từ tính có dung lượng lớn như đĩa cứng, băng từ; các phương tiện quang học như đĩa quang (optical disk), CD, DVD, BlueRay; và các cách khác có tốc độ thấp hơn RAM nhưng có khả năng lưu trữ lâu hơn RAM. Trước đây bộ nhớ thường được gọi là lưu trữ sơ cấp hay bộ nhớ trong và lưu trữ được gọi là lưu trữ thứ cấp hay bộ nhớ ngoài.
 

Will_Nevercry

New Member
UDP (User Datagram Protocol) là một trong những giao thức cốt lõi của giao thức TCP/IP. Dùng UDP, chương trình trên mạng máy tính có thể gởi những dữ liệu ngắn được gọi là datagram tới máy khác. UDP không cung cấp sự tin cậy và thứ tự truyền nhận mà TCP làm; các gói dữ liệu có thể đến không đúng thứ tự hay bị mất mà không có thông báo. Tuy nhiên UDP nhanh và hiệu quả hơn đối với các mục tiêu như kích thước nhỏ và yêu cầu khắt khe về thời gian. Do bản chất không trạng thái của nó nên nó hữu dụng đối với việc trả lời các truy vấn nhỏ với số lượng lớn người yêu cầu.


TCP (Transmission Control Protocol - "Giao thức điều khiển truyền vận") là một trong các giao thức cốt lõi của bộ giao thức TCP/IP. Sử dụng TCP, các ứng dụng trên các máy chủ được nối mạng có thể tạo các "kết nối" với nhau, mà qua đó chúng có thể trao đổi dữ liệu hay các gói tin. Giao thức này đảm bảo chuyển giao dữ liệu tới nơi nhận một cách đáng tin cậy và đúng thứ tự. TCP còn phân biệt giữa dữ liệu của nhiều ứng dụng (chẳng hạn, dịch vụ Web và dịch vụ thư điện tử) đồng thời chạy trên cùng một máy chủ.
 

dinhquyhf

New Member
Nếu so sánh mô hình OSI và TCP/IP, bạn sẽ thấy chúng có những điểm giống và cũng có những điểm khác nhau.

* Các điểm giống nhau:

- Cả hai đều là phân lớp.

- Cả hai đều có lớp ứng dụng, qua đó chúng có nhiều dịch vụ khác nhau.

- Cả hai có các lớp mạng và lớp vận chuyển có thể so sánh được.

- Kỹ thuật chuyển mạch gói được chấp nhận

- Chuyên viên lập mạng cần biết cả hai.

*Các điểm khác nhau:

- TCP/IP tập hợp các lớp trình bày và lớp phiên vào trong lớp ứng dụng của nó.

- TCP/IP tập hợp lớp vật lý và lớp liên kết dữ liệu trong OSI thành một lớp.

- Các giao thức TCP/IP là các chuẩn cơ sở cho Internet phát triển, như vậy mô hình TCP/IP chiếm được niềm tin chỉ vì các giao thức của nó. Ngược lại, các mạng thông thường không được xây dựng dựa trên nền OSI, ngay cả khi mô hình OSI được dùng như một hướng dẫn. Nói cách khác nó là một văn phạm cùng kiệt và có thiếu sót.
 

dang_kim_dung

New Member
Hệ mật Vernam (OTP)

Giả sử n >1 là một số nguyên và P = C = K = (Z2)n. Với K є (Z2)n, ta xác định eK(x) là tổng vec tơ theo modulo 2 của K và x (tương đương với phép hay loại trừ của hai dãy bit). Như vậy, nếu x = (x1,x2,…,xn) và K= (K1,K2,…,Kn) thì:

eK(x) = (x1+K1,x2+K2,…,xn+Kn) mod 2

Phép mã hóa là đồng nhất với phép giải mã, tức là nếu

y = (y1, y2, …, yn) thì:

dK(y) = (y1 + K1, y2 + K2, …, yn + Kn) mod 2.
 

Drudwas

New Member
khóa chạy:Lý tưởng nhất là ta có khoá dài như bản tin.

Vigenere đề xuất khoá tự động sinh cho bằng độ dài bản tin như sau:

Từ khoá được nối tiếp bằng chính bản rõ để tạo thành khoá. Sau đó dùng mã Vigenere để mã bản rõ đã cho.

Khi đó biết từ khoá có thể khôi phục được một số chữ ban đầu của bản rõ. Sau đó tiếp tục sử dụng chúng để giải mã cho văn bản còn lại.

Sự cải tiến này làm mất khái niệm chu kỳ, gây khó khăn cho việc thám mã, nhưng vẫn còn đặc trưng tần suất để tấn công.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Trắc nghiệm CẤU TRÚC, ĐẶC TÍNH, CHỨC NĂNG CỦA CÁC ĐẠI PHÂN TỬ SINH HỌC (ADN, ARN và PROTEIN) Ôn thi Đại học - Cao đẳng 0
D Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng tư vấn học đường cho giáo viên ở các trường tiểu học Luận văn Sư phạm 0
H Phân tích khả năng hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường thông qua các giải pháp tổ chức kiến trúc cảnh Kiến trúc, xây dựng 0
T Tìm hiểu các chức năng hỗ trợ lập trình trên môi trường mạng của sql server & visual basic – viết ch Khoa học Tự nhiên 0
L Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban thuộc ngân hàng công thương chi nhánh Chương Dương Luận văn Kinh tế 2
B Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban Luận văn Kinh tế 0
H Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của tổ chức marketing trong các doanh nghiệp thương Luận văn Kinh tế 0
H Tổ chức kế toán các nghiệp vụ thanh toán, phân tích tình hình và khả năng thanh toán của Xí nghiệp k Luận văn Kinh tế 0
Y Vai trò chức năng của bộ máy quản lý đối với các hoạt động quản lý của doanh nghiệp Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu ứng dụng công nghệ enzim để sản xuất và sử dụng chức năng xylooligosacarit từ các phế phụ Khoa học Tự nhiên 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top