congaigiangho67

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
TÀI NGUYÊN RỪNG VIỆT NAM


I / ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách có tác động mạnh đến đời sống của nhân dân như: giao đất lâm nghiệp khoán quản lý bảo vệ rừng quy chế quản lý rừng phòng hộ, quy chế hưởng lợi…Tuy nhiên, có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp đó là: áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh, cùng kiệt đói hoàn cảnh kinh tế khó khăn, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp, kiến thức bản địa chưa được phát huy, hoạt động khuyến nông, khuyến lâm chưa phát triển, chính sách Nhà nước về quản lý rừng cộng đồng còn nhiều bất cập, cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi. Hiện trạng này đang đặt ra một vấn đề là trong khi xây dựng các quy định về quản lý bảo vệ rừng trên phạm vi cả nước, phải nghiên cứu và tính toán nhu cầu thực tế chính đáng của người dân mới có thể đảm bảo tính khả thi của các quy định, đồng thời bảo đảm cho rừng không bị khai thác lợi dụng quá mức, ảnh hưởng xấu đến chức năng của rừng tự nhiên.
II. TÌNH TRẠNG TÀI NGUYÊN RỪNG Ở VIỆT NAM
Tổng cục Thống kê cho biết, 3 tháng đầu năm 2009, cả nước bị mất 489 ha rừng, tăng 77% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 244 ha (tăng 68%), còn diện tích rừng bị chặt phá là 245 ha. Như vậy, trung bình một ngày, có 5,5ha rừng bị tàn phá.
Nạn phá rừng ở nước ta đã đến mức báo động, phá rừng theo cách đơn giản nhất để làm nương rẫy; phá rừng để tìm kiếm khoáng sản; phá rừng lấy gỗ; phá rừng để...trồng rừng mới và vô vàn những kiểu tiếp tay vi phạm pháp luật khác đang hủy hoại lá phổi xanh của đất nước.

Từ tỉnh địa đầu đất nướcVết thương chưa lành tại những cánh rừng gỗ nghiến Cán Tỷ (Quản Bạ, Hà Giang) trước đây đã bị lâm tặc hoành hành thì nay người dân các xã Phong Quang, Tùng Bá, Phú Linh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang đua nhau gồng gánh các loại phong lan tươi, được khai thác từ những cánh rừng già huyện Vị Xuyên đem về thị xã Hà Giang “phục vụ” nhu cầu chơi phong lan của những người có thu nhập khá giả.

Việc khai thác lan rừng đã gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến môi trường, đa dạng sinh học của rừng… Vì để lấy được cây phong lan, người dân địa phương phải chặt cành, đốn cây theo lối “triệt phá“. Chính vì thế mà các cánh rừng đã, đang bị xâm hại nghiêm trọng, các nguồn cây quý hiếm như nghiến, đinh, gụ... đang bị mất dần, đồng thời còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái...... đến mũi Cà Mau đều có hiện tượng phá rừng

Trong khi rừng U Minh còn chưa hồi phục bởi đợt cháy rừng hồi năm 2002, thì 2 năm sau, rừng Tràm U Minh Hạ tại tỉnh Cà Mau lại phải gánh chịu thêm 1 lần tàn phá. Gần 3.000 ha rừng Tràm ngập mặn ở U Minh đã được giao cho CTCP Đồng Nai (Codona) trồng cây keo lai làm nguyên liệu giấy…. Hậu quả mà ai cũng thấy đó là Khu rừng Tràm ngập mặn nguyên sinh ở U Minh Hạ đã được thu hẹp lại. Và cho đến nay, sau gần 5 năm vụ việc xảy ra, gần 3000 ha rừng Tràm ngập mặn ở U Minh Hạ vẫn đang để cho cỏ lau và cây keo lai mọc um tùm.
Rừng miền Trung cũng kêu cứu
Xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương (Nghệ An) là địa điểm nằm trong diện phải di dân, giải toả để phục vụ cho công trình Thuỷ điện Bản Vẽ. Một số hộ dân lợi dụng chủ trương người dân vùng lòng hồ di dời về nơi ở mới được phép tận thu gỗ ở khu vực ngập nước, nhiều người đã quay trở lại ồ ạt phá rừng trái phép. Trong bối cảnh hỗn độn này, lâm tặc từ nhiều nơi cũng nhảy vào phá rừng khiến cho tình hình khai thác gỗ trái phép đầu nguồn Nậm Nơn diễn ra hết sức nhức nhối.

Ở Quảng Trị, dân đã phản ánh một kiểu phá rừng mới tinh vi, ma quái được hợp thức hóa đầy đủ chữ ký của kiểm lâm lẫn dấu triện của chính quyền sở tại dưới danh nghĩa thu mua gỗ vườn trồng, nhưng thực chất là băm nát rừng già tự nhiên phòng hộ đầu nguồn áp biên giới Việt-Lào thuộc vùng Lìa của huyện rẻo cao Hướng Hóa. Theo hồ sơ của Hải quan Quảng Trị, từ đầu tháng 3 đến nay có 34 cây cảnh cổ thụ như bằng lăng, lội... xuất qua Cổng B Lao Bảo. Như vậy để có được số cây này, lâm tặc phải đốn ngã rất nhiều cây cổ thụ khác để dọn đường vận chuyển.

Đối với tỉnh Quảng Nam, chỉ riêng 4 tháng đầu năm 2009, lực lượng chức năng đã phát hiện 700 vụ liên quan đến phá rừng; tịch thu hơn 1.072m3 gỗ xẻ và hơn 572m3 gỗ tròn; tạm giữ 44 ô tô, 45 xe máy cùng hàng chục phương tiện tham gia vận chuyển, khai thác gỗ trái phép… Đặc biệt, việc đe dọa, cản trở, chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng. Cũng trong thời gian này, xảy ra một vụ cháy rừng thông với diện tích gần 2ha tại xã Duy Trung (Duy Xuyên).Ðường đông Trường Sơn chạy qua địa bàn hai huyện Nam Giang và Nông Sơn (Quảng Nam) với chiều dài gần 37 km. Tuy nhiên, tình trạng chặt phá, đốt rừng để làm rẫy dọc tuyến đường ở khu vực giáp ranh giữa hai huyện Nam Giang và Nông Sơn có nhiều diễn biến phức tạp.

Đến nay đã có gần 20 ha rừng dọc tuyến đường bị dân phát, đốt làm rẫy, trong đó gần 15 ha thuộc thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Nam Giang và gần 5 ha thuộc xã Phước Ninh, huyện Nông Sơn. Ðối tượng phát, đốt rừng chủ yếu là dân thôn Mực, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Nam Giang. Tất cả đã gây thiệt hại hàng trăm ha rừng.

Mới đây nhất, những cánh rừng nguyên sinh của vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh) lần nữa bị lâm tặc tàn phá. Người dân từng chứng kiến vào chiều tối, gỗ lại được thả trôi về trắng cả một khúc sông Rào Nổ.

Hãy một lần đi dọc biển miền Trung, sẽ thấy những hố sâu khai thác titan giết chết những rừng phi lao quanh năm nơi đầu sóng ngọn gió chặn bão cát và xâm lấn của biển.

Nhưng tai hại nhất là sự phá rừng có tổ chức được sự hậu thuẫn của các cấp chính quyền. Những món lợi lớn từ rừng khiến người ta tìm mọi cách xin để được “chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng”, “trồng cây công nghiệp”, “phát triển khu du lịch”…và kết quả là nhiều héc ta rừng hàng trăm năm mới hình thành đã bị xóa sổ nhanh chóng bởi các phương tiện máy móc hiện đại.

Nương rẫy thay thế rừng Tây Nguyên.
Từ đầu năm 2009 đến nay, toàn tỉnh Đắc Nông có 183 vụ phá rừng với tổng diện tích rừng bị phá lên tới 76 ha. Huyện bị phá nhiều nhất là Tuy Đức, Đắc Glong, Krông Nô. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh cũng đã xảy ra 4 vụ cháy rừng trồng thiêu rụi 4ha.

Tại tỉnh Kon Tum, theo số liệu mới nhất từ Lâm trường Đăk Tô, thuộc Cty đầu tư phát triển nông-lâm-công nghiệp và dịch vụ huyện Đăk Tô, trong mùa khô 2008-2009, nhiều hộ dân của các xã như Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm, Văn Lem vẫn cố tình vào rừng phát nương làm rẫy tại các tiểu khu (TK) 278, 282, 288, 289 và 290, với diện tích rừng bị thiệt hại trên 11ha...

Riêng xã Đăk Trăm đứng đầu "danh sách" về phá rừng làm rẫy, 104 hộ vi phạm với diện tích rừng bị tàn phá 63.030m2. Ngày 13/2/2009, lâm trường đã lập biên bản 55 người vi phạm đến từ xã Đăk Trăm, với diện tích rừng bị thiệt hại 33.280m2. Và cứ như vậy, rừng Kon Tum tiếp tục thu hẹp qua những mùa nương rẫy.

Theo số liệu thống kê được của Hạt Kiểm lâm huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng, trung bình mỗi năm địa phương này có trên 50 ha rừng bị xóa sổ trước sự bất lực của chính quyền. Ông Hoàng Tất Dương, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Đam Rông cho biết, chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, qua phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện Lắc, tỉnh Đắc Lắc đã phát hiện trên 50 hộ tại khu vực xã Đạ Tông vi phạm lâm luật- một con số đã nói lên tất cả cho thực trạng phá rừng khu vực này.
III.NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN MẤT RỪNG
a) Nguyên nhân khách quan.
- Áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng cơ học, di cư tự do từ nơi khác, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác, những đối tượng này chủ yếu là những hộ nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng. Nhận thức về bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá rừng kiếm kế sinh nhai, lấy đất canh tác hay làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để phá rừng hay khai thác gỗ, lâm sản trái phép.
- Do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản tăng cao, nhu cầu về đất canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên đã kích thích người dân phá rừng để lấy đất trồng các loại cây có giá trị cao hay buôn bán đất, sang nhượng trái phép.
- Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, nhiều công trình xây dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây áp lực lớn đối với rừng và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.
- Tình hình thời tiết diễn biễn ngày càng phức tạp, khô hạn kéo dài, bão lũ xảy ra thường xuyên gây thiệt hại không nhỏ tới tài nguyên rừng. Diện tích rừng khoanh nuôi phục hồi và rừng trồng tăng lên, dẫn đến nguy cơ xảy ra cháy rừng và sinh vật hại rừng cao hơn.

b) Nguyên nhân chủ quan.
1) Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế chính sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng, nên vẫn tiếp tục phá rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền.
2) Các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp. ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc. Sau một thời gian thực hiện các biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá rừng theo chỉ đạo của Thủ tướng, một số nơi có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
h. Củng cố tổ chức, nâng cao năng lực của lực lượng kiểm lâm.
- Đổi mới tổ chức lực lượng kiểm lâm theo Luật bảo vệ và phát triển rừng để kiểm lâm gắn với chính quyền, với dân, với rừng, thực hiện chức năng tham mưu cho chính quyền địa phương, tổ chức bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, bảo đảm chấp hành pháp luật trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí kiểm lâm địa bàn ở 100% các xã có rừng để tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp, theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ đầu những vụ vi phạm. Từng bước tăng biên chế cho lực lượng kiểm lâm để bảo đảm định mức bình quân 1.000ha rừng có 1 kiểm lâm.
- Tăng cường trang thiết bị cho kiểm lâm gồm các phương tiện hoạt động phù hợp với địa bàn rừng núi, hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị phòng cháy, chữa cháy rừng.
- Ban hành một số chính sách về kinh phí cho hoạt động nghiệp vụ, tiền lương, chế độ thương binh, liệt sỹ, cơ chế sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để trấn áp lâm tặc. Ban hành tiêu chuẩn ngạch công chức kiểm lâm vào năm 2006.
i) Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng.
- Lắp đặt và khai thác có hiệu quả trạm thu ảnh viễn thám phục vụ cho công tác dự báo, thông báo cháy rừng và theo dõi diễn biến rừng.
- Xây dựng các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng, bảo vệ rừng (đường băng, chòi canh, hồ chứa nước, trạm bảo vệ, đường tuần tra...) ở các khu rừng đặc dụng, phòng hộ, các vùng trọng điểm đã được xác định về phá rừng và cháy rừng.
- Đầu tư xây dựng các Trung tâm huấn luyện, đào tạo chuyên ngành cho lực lượng bảo vệ rừng.
- Trang bị phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác hiện trường cho các Hạt Kiểm lâm trên toàn quốc, trước mắt tập trung đầu tư cho các Hạt Kiểm lâm ở những vùng trọng điểm.

j). Ứng dụng khoa học công nghệ.
- Ứng dụng công nghệ tin học, GIS, viễn thám vào công tác quản lý bảo vệ rừng, theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp.
- Thiết lập và sử dụng có hiệu quả mạng máy tính chuyên ngành; xây dựng phần mềm quản lý, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và các vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng.
- Xây dựng, tổ chức thực hiện quy trình giám sát, điều tra đa dạng sinh học ở các khu rừng đặc dụng.
- Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ phòng cháy, chữa cháy rừng; xây dựng và tổ chức thực hiện các quy trình, quy phạm kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng.
k. Hợp tác quốc tế.
- Triển khai thực hiện tốt các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Công ước về buôn buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp - CITES; Hiệp định ASEAN về chống ô nhiễm khói bụi xuyên biên giới - haZE; Diễn đàn hổ toàn cầu - GTF,...)
- Thu hút các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ rừng.
- Xây dựng và thực hiện các thỏa thuận song phương về hợp tác bảo vệ rừng liên biên giới với các nước Lào và Cămpuchia.


V .KẾT LUẬN
Tài nguyên rừng Viêt Nam đang gặp phải nhiều vấn đề như nạn phá rừng trái phép dưới nhiều hình thức và mục đích khác nhau đang diễn ra rất phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền cũng như cơ quan chức năng trong vấn đề quản lý. Đây là vấn đề mang tính xã hội cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham gia của nhiều ngành chức năng. Những năm vừa qua, nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã được thực hiện như chương trình 132, 134, 135 đã có tác động tích cực, góp phần thay đổi bộ mặt của các vùng nông thôn, miền núi, song vẫn chưa giải quyết được triệt để nạn phá rừng. Với việc đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về quản lý bảo vệ rừng trong những năm gần đây, nhận thức của đa số người dân về hành vi này đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều người dân đã biết phá rừng trái phép là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ gây hại về môi trường. Tuy nhiên, do tác hại của phá rừng không diễn ra ngay nên người dân thường chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không quan tâm đến cái hại lâu dài. Hơn nữa, các hình thức xử phạt và chế tài của luật pháp vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, việc xử lý vi phạm gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp người vi phạm là người dân tộc thiểu số, đời sống khó khăn, không có khả năng chấp hành các quyết định xử phạt, dẫn đến nhiều vụ việc không xử lý triệt để, do vậy tính giáo dục và răn đe chưa được đề cao. Chính vì vậy, Nhà nước cần thắt chặt hơn nữa trong công tác bảo vệ và phát triển rừng đồng thời đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài nguồn tài nguyên này.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top