Chetan

New Member

Download miễn phí Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt





TTD dùng để thanh toán trong điều kiện đòi hỏi phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao trong hợp đồng. Mỗi TTD chỉ thanh toán cho một người bán bằng chuyển khoản. Ngoài ra để tạo điều kiện cho NH và các bên tham gia thanh toán kiểm soát an toàn cũng như tiết kiệm các chi phí thanh toán người ta quy định mỗi TTD có thời hạn 3 tháng và mức tiền tối thiểu của TTD là 10 triệu đồng. Nếu không sử dụng hết tiền thì trả lại TK đơn vị mở TTD, TTD không được thanh toán bằng TM.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

NGHIệP Vụ NGÂN HÀNG THƯƠNG MạI TÌNH HÌNH THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIềN MặT Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán đã giảm mạnh qua các năm (giảm từ 31,6% năm 1991 đến nay chỉ còn khoảng 15%).  Điều này cho thấy thanh toán không dùng tiền mặt đang được hệ thống ngân hàng mở rộng và phát triển, góp phần giảm đáng kể lượng tiền mặt trong thanh toán. Với xu thế phát triển hiện tại, thẻ ngân hàng đã và đang trở thành phương tiện thanh toán phổ biến tại Việt Nam, được các NHTM chú trọng phát triển, đến cuối tháng 5/2010, cả nước hiện có trên 11.000 máy giao dịch tự động (ATM), gần 40.000 các thiết bị chấp nhận thẻ (POS) được lắp đặt và 24 triệu thẻ ngân hàng được phát hành với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190 thương hiệu thẻ. NHNN đã thiết lập được hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, kết nối 63 tỉnh, thành phố với hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp vụ thanh toán hiện đại theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán với dung lượng ngày càng cao của nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại đã phát triển cả về quy mô và mạng lưới hoạt động. Các ngân hàng đã thiết lập được hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking) và hệ thống thanh toán nội bộ với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Moblie banking Internet banking Ví điện tử … 70.000 ví tính đến năm 2009 chủ động và tích cực hợp tác với các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh thương mại điện tử. Một số phương tiện và dịch vụ thánh toán mới :   Xu hướng liên doanh liên kết giữa các ngân hàng đã hình thành, giúp cho nhiều ngân hàng thương mại nhỏ vượt qua những hạn chế về vốn đầu tư vào công nghệ và trang thiết bị phục vụ cho hệ thống thanh toán. Việc liên doanh liên kết trong phát hành và thanh toán thẻ trở thành một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự tăng trưởng lượng thẻ phát hành ra lưu thông gần đây. Hoạt động TTKDTM phục vụ cho việc thu, chi Ngân sách Nhà nước đã được chú trọng triển khai, nhất là việc triển khai công tác hiện đại hóa quy trình thu, nộp thuế giữa cơ quan thuế - Kho bạc Nhà nước – Hải quan – Tài chính – các NHTM đã được hình thành. NHữNG MặT CÒN HạN CHế Bên cạnh những kết quả đáng khả quan đã đạt được, TTKDTM tại Việt nam hiện nay đã bắt đầu phát triển, nhưng chưa tương xứng với cơ sở hạ tầng sẵn có. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động TTKDTM phát triển chưa đồng bộ giữa thanh thị với nông thôn, bản thân cơ sở hạ tầng giữa các thành thị cũng chưa đồng bộ với nhau. Ngoài ra, hệ thống ATM vẫn chủ yếu được dùng để rút tiền mặt, việc chuyển khoản chỉ được thực hiện chủ yếu trong hệ thống ngân hàng, hệ thống POS chưa phát triển nhiều. Hoạt động TTKDTM trong khu vực công, giữa các doanh nghiệp với nhau vẫn còn một bộ phận bằng tiền mặt. Đặc biệt là việc TTKDTM trong dân cư còn nhiều hạn chế. Ngay cả khi ở các thành thị, nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển TTKDTM như tại các siêu thị, trung tâm mua sắm, … việc sử dụng tiền mặt vẫn là chủ yếu do thói quen tâm lý sử dụng tiền mặt của một bộ phận cơ quan, tổ chức và cá nhân còn phổ biến. Ngoài ra, công tác thông tin, tuyên truyền của các phương tiện thông tin đại chúng chưa thật đồng bộ, đầy đủ và kịp thời. Do đó, tác dụng của công tác này đối với việc nâng cao sự hiểu biết của người dân về hoạt động TTKDTM còn có những hạn chế nhất định. - Hạ tầng cơ sở và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán còn cùng kiệt nàn và kém hiệu quả. Có hơn 2.154 ATM số lượng phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Với dân số nước ta hơn 80 triệu dân thì bình quân 45.000 dân có 1 ATM. Lượng ATM như vậy quá thấp nếu so với các quốc gia láng giềng (Trung Quốc: 19.000 dân/ATM, Singapore: 2.638 dân/ATM). Hơn nữa, các máy ATM lại chỉ có khả năng phục vụ cho một nhóm nhỏ ngân hàng, chứ không có khả năng sử dụng chung cho nhiều ngân hàng như thực tế ở nhiều nước hiện nay, làm cho mạng lưới máy rút tiền tự động càng hạn chế phạm vi phục vụ Các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chỉ tập trung phát triển tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và khu chế xuất. Thiếu các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoạt động mang tính chuyên nghiệp, phục vụ cho một số đối tượng, một số lĩnh vực hay vùng sâu, vùng xa, nông thôn và các địa phương có nền kinh tế kém phát triển. Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận đối với những giao dịch thanh toán mức trung bình, đặc biệt đối với các giao dịch liên ngân hàng và liên tỉnh. Ngoài ra, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng khách hàng còn phải trả thêm phụ phí so với việc sử dụng tiền mặt. Hệ thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai đoạn I của Dự án hiện đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên ngân hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá tải với số lượng giao dịch bình quân lên tới 10.000 giao dịch/ngày. Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, tác phong phục vụ và đạo đức nghề nghiệp. CƠ Sở LÝ LUậN Về THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIềN MặT Trên cơ sở những yêu cầu của tiến trình phát triển của cơ chế thị trường thì hình thức TTKDTM ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống NH là một tất yếu khách quan của một xã hội phát triển. Với hình thức thanh toán này không những đã khắc phục được những hạn chế của thanh toán tiền mặt mà nó còn có những ưu điểm khác như: nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm… Trong nền KTTT, TTKDTM đã nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu và là sản phẩm dịch vụ quan trọng của NHTM để cung cấp cho khách hàng là các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế. Như vậy, TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được thực hiện bằng cách trích dẫn gửi từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại NH hay bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của NH. Các TK này đều được mở tại NH. CÁC THỂ THỨC TTKDTM TẠI VIỆT NAM 1. THể THứC THANH TOÁN BằNG SÉC. Séc là lệnh trả tiền của chủ TK, được lập theo mẫu do NHNN quy định, yêu càu đơn vị thanh toán ( NH, kho bạc…) trích một số tiền từ TK của mình để trả cho người thụ hưởng trong thời gian hiệu lực của tờ séc đó. Về nguyên tắc người phát hành séc chỉ được phát hành trong số dư phạm vi Tk của mình, nếu vượt quá sẽ phải chịu một khoản tiền phạt. 1.1.Séc chuyển khoản ( CK ) : Là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với NH về việc trích nộp một khoản tiền nhất định từ TK của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc. Séc chuyển khoản không được phép lĩnh T...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top