Jamal

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
NỘI DUNG TRÌNH BÀY:

A- KHÁI QUÁT VỀ BONG BÓNG CHỨNG KHOÁN
B- HIỆN TƯỢNG BONG BÓNG VÀ SỤP ĐỔ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
I- Hiện tượng bong bóng là gì?
II- Sụp đổ là gì?
III- Phân biệt hiện tượng sụp đổ trên TTCK và trạng thái điều chỉnh thị trường.
IV- Mô hình của các giai đoạn bong bóng chứng khoán.
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán.
VI- Biện pháp hạn chế tác hại của bong bóng chứng khoán.
C- PHÂN TÍCH MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH:
I- Thị trường Chúng khoán VN trong giai đoạn đầu bong bóng.
II- Mô hình bùng-vỡ (boom-bust) trên TTCK VN 2007.
III- Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành bong bóng 2007.
D. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM.

A- KHÁI QUÁT VỀ BONG BÓNG CHỨNG KHOÁN:

Trong những năm gần đây, những nhà đầu tư (NĐT) tham gia vào thị trường chứng khoán ngày càng nhiều, chứng khoán đang là một đề tài nóng bỏng khi những bản tin chứng khoán được cập nhật liên tục hằng ngày trên các kênh thông tin đại chúng.

Thế nhưng, đa phần các NĐT chứng khoán lại không nắm bắt được những cách vận hành, những rủi ro tiềm ẩn đằng sau một mức lợi nhuận lớn mà họ có thể kiếm được trên thị trường. Một trong những rủi ro nguy hiểm nhất đó chính là hiện tượng bong bóng (Bubble Stock) và sụp đổ trên TTCK.

Người quan tâm đến chứng khoán đều không thể quên được thảm hoạ ngày 28/10/1929 tại New York, khi lượng cổ phiếu được tung ra ào ạt do một số nhà đầu cơ cảm nhận được mức trần của giá chứng khoán mà họ nắm giữ. Tâm lý số đông đã dẫn tới nổ "bong bóng": cán cân cung cầu chênh lệch theo hướng bán tống bán tháo hàng. Kết cục là chỉ số thị trường tụt dốc chóng mặt, kéo theo hàng loạt các thảm hoạ kinh tế.

B- HIỆN TƯỢNG BONG BÓNG VÀ SỤP ĐỔ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
I- Hiện tượng bong bóng là gì?

- Một chu kỳ kinh tế đặc trưng bởi quá trình mở rộng nhanh chóng sau một giai đoạn thị trường thu nhỏ trầm lắng.

- Hiện tượng giá tài sản tăng bùng phát, thường vượt ra ngoài giới hạn đảm bảo của các hệ số tài chính cơ bản và xuất hiện ở một số ngành nhất định, tiếp sau hiện tượng này là sự sụt giá rất nhanh và mạnh cùng làn sóng ồ ạt bán ra.

- Là một học thuyết mô tả hiện tượng giá chứng khoán vượt quá giá trị chính xác của chúng và cứ tiếp tục tăng như vậy cho đến khi giá đột ngột rơi tự do và quả bong bóng vỡ.

- "Bong bóng", xét trên khía cạnh tâm lý đầu tư, là một hiện tượng thể hiện một điểm yếu nhạy cảm trong cảm xúc của con người.

- Hiện tượng bong bóng hình thành khi nhu cầu của nhà đầu tư với một loại cổ phiếu lên quá cao, làm giá giao dịch vượt xa mọi mức chính xác và hợp lý tính toán dựa vào kết quả vận hành thực của doanh nghiệp phát hành.

- Bản chất những bong bóng là không được cấu tạo từ một vật liệu có thực, vỡ là kết quả tất yếu. Khi sự "vỡ" xảy ra, tiền đầu tư theo ảo giác bong bóng đó cũng sẽ bay theo gió.

II- Sụp đổ là gì?

- Sụp đổ là hiện tượng suy giảm nhanh và lớn của tổng giá trị toàn thị trường, thông thường là gắn với sự "vỡ" của bong bóng chứng khoán.

- Hành động bán một cách hoảng loạn là biểu hiện chung của thị trường sau tiếng vỡ của bong bóng và là hình tượng sụp đổ của thị trường, ai cũng muốn bán đi, đẩy loại cổ phiếu đang giảm giá từng giây mà mình nắm giữ cho người khác, nhưng liệu có ai định mua trong tình cảnh đó?
- Kết quả của tình trạng bán một cách điên cuồng là thị trường đi xuống rất nhanh trên mọi khía cạnh, dẫn đến suy sụp và tác động trở lại đến tất cả NĐT
è Thông thường, sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán sẽ là một giai đoạn suy thoái kinh tế.

Mối liên hệ giữa bong bóng và sụp đổ có thể so sánh với mây và mưa. Có thể có mây nhưng không có mưa, nhưng đã có mưa thì chắc chắn phải có mây, bong bóng là mây và tình trạng sụp đổ thị trường là mưa. Lịch sử cho thấy sụp đổ thị trường là hệ quả bắt nguồn từ tình trạng bong bóng thị trường vỡ, mây càng dày - bong bóng càng to thì mưa sẽ càng lớn.

III- Phân biệt hiện tượng sụp đổ trên TTCK và trạng thái điều chỉnh thị trường:

Trạng thái điều chỉnh của thị trường có thể hình dung như một cách thị trường ngăn lại trạng thái tâm lý của những nhà đầu tư đang quá phấn khích. Nguyên tắc chung thường được đưa ra đối chiếu là trạng thái điều chỉnh của thị trường (correction) sẽ không làm tổng giá trị thị trường giảm quá 20%. Có khá nhiều vụ sụp đổ thị trường bị người ta gán nhầm cho cái tên là trạng thái điều chỉnh, đặc biệt là vụ sụp đổ thị trường nghiêm trọng năm 1987. Dẫu sao cũng chỉ có thể xác định một đợt giảm giá là sụp đổ hay chỉ đơn thuần là điều chỉnh sau khi thị trường ngừng tụt dốc ở tốc độ cao trong một khoảng thời gian đủ dài.

IV- Mô hình của các giai đoạn bong bóng chứng khoán

Thị trường luôn trở lại vị trí cân bằng là tư tưởng chủ đạo trong các học thuyết tài chính hiện đại. Các nhà kinh tế - tài chính hiện đại cho rằng, NĐT hay các thành phần tham gia thị trường luôn có thông tin hoàn hảo và hành động một cách hợp lý dựa trên thông tin đó.
Học thuyết thị trường hiệu quả, nền tảng của tài chính hiện đại vẫn cho rằng, giá trị nội tại của cổ phiếu được sinh ra từ các yếu tố cơ bản và giá trị thị trường có xu hướng quay trở về trạng thái cân bằng (giá trị nội tại) khi dao động vượt ra khỏi trạng thái này.
Nói cách khác, giá trị thị trường và giá trị nội tại cổ phiếu là hai đối tượng hoàn toàn độc lập với nhau. Tuy nhiên, Soros lại có cách nhìn khác. Theo ông, các nhà kinh tế đã bỏ qua một thực tế quan trọng, vốn là bản chất của thị trường tài chính, đó là tính phản hồi.
Theo lý thuyết kinh tế truyền thống, giá cổ phiếu của một công ty phản ánh những cái căn bản (fundamentals) của công ty đó. Đại loại chúng liên quan đến lĩnh vực và quy mô hoạt động, chiến lược kinh doanh, sản phẩm, khách hàng, doanh thu, lợi nhuận, đội ngũ lãnh đạo... của công ty đó, và giá cổ phiếu có thể tính được bằng cách chiết khấu dòng thu nhập dự kiến trong tương lai.
Soros coi những cái căn bản là quan trọng, song ông coi thiên kiến về những cái căn bản của những người tham gia thị trường và sự nhận biết về thiên kiến của những người khác mới là cái ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu, ông gọi việc tư duy của chúng ta về giá cổ phiếu ảnh hưởng đến chính giá cổ phiếu là hiện tượng phản thân (reflexivity). Thực ra hiện tượng phản thân phổ biến ở nhiều lĩnh vực khác (như bất động sản, các quá trình xã hội, chính trị, lịch sử...) song ở đây chỉ giới hạn ở lĩnh vực cổ phiếu.
Soros cho rằng, các NĐT trên TTCK không hành động dựa trên tri thức, mà dựa trên những nhận xét chủ quan của họ. Các kỳ vọng có thể sai và là nguyên nhân khiến thị trường dịch chuyển một cách quá mức.
Soros gọi đây là "tính có thể sai" của thị trường và là tiền đề của học thuyết phản hồi. Theo đó, khó có thể xuất hiện sự hoàn hảo của thông tin như giả định của học thuyết thị trường hiệu quả.
Ông đã nhận thấy điều này qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 khi nhiều thông tin trên thị trường đã được "ém nhẹm", khiến NĐT, thậm chí cả những nhà hoạch định chính sách của Mỹ cũng không biết được.
Chính thủ thuật kế toán đã giúp các định chế tài chính ém nhẹm thông tin về sự yếu kém trong hệ thống tài chính. Cho đến tận hôm nay, các cơ quan điều tra của Mỹ vẫn đang tiến hành điều tra về việc che giấu thông tin của các CEO của Lehman Brothers hay Goldman Sachs.
Theo Soros, thị trường tài chính có tính phản hồi, vì kỳ vọng các NĐT có thể tác động đến sự vận động của thị trường. Trên TTCK, các quyết định mua bán đều dựa trên kỳ vọng về giá cả tương lai, nhưng đến lượt nó, giá cả tương lai lại phụ thuộc vào các quyết định mua bán hiện tại.
Có thể hình dung rằng, NĐT đã tính toán giá trị nội tại từ các yếu tố cơ bản mà họ kỳ vọng sẽ diễn ra. Tuy nhiên, kỳ vọng này có thể sai và chính hành động hiện tại của các NĐT có thể tạo nên xu hướng. Sau đó, xu hướng này sẽ làm thay đổi các yếu tố cơ bản của thị trường.
Dựa trên thuyết phản hồi, Soros đã thiết lập nên "Mô hình bùng - vỡ", miêu tả quá trình: giá trị thị trường tác động lên các yếu tố cơ bản và sau đó chính các yếu tố cơ bản làm thay đổi giá trị thị trường" (trong cuốn "Thuật giả kim tài chính" năm 1987, Soros kết luận thuyết phản hồi bằng nhận định: "Giá trị thị trường là nguyên nhân thay đổi giá trị thị trường").




Ở giai đoạn đầu (1), xu thế còn chưa được nhận ra. Rồi đến giai đoạn tăng tốc (2), khi xu thế được nhận ra và tự tăng cường bởi thiên kiến thịnh hành. Một giai đoạn kiểm tra (3) có thể xen vào khi giá sụt.
Nếu thiên kiến và xu thế duy trì, cả hai hiện ra mạnh hơn bao giờ hết (4). Rồi đến giờ phút thử thách (5) khi thực tế không còn duy trì được kỳ vọng bị phóng đại, tiếp theo một giai đoạn chạng vạng (6) khi người ta tiếp tục cuộc chơi, mặc dù họ không còn tin vào nó, với hi vọng họ sẽ được cứu giúp do khôn hơn những kẻ khờ dại.
Cuối cùng đến một điểm giao (7) khi xu thế sụt giảm và ngay cả những kẻ khờ dại nhất cũng từ bỏ hi vọng. Điều này dẫn đến một sự gia tốc thảm khốc theo chiều ngược lại (8), thường được biết đến như một "sự sụp đổ".
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán:
1. Các Big Boys (người có nguồn vốn lớn) trên TTCK lợi dụng tâm lý bầy đàn để thao túng thị trường hay còn gọi là hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK.
a. Hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK là gì?
- Quy định tại điều 28, Mục 6 về vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán của Nghị định 36/2007/NĐ-CP, hành vi thao túng giá cổ phiếu TTCK được ghi rõ: là hành vi của các NĐT cá nhân hay NĐT tổ chức thực hiện các giao dịch để làm cho mọi NĐT khác hiểu sai lệch về thị trường, tạo ra cung cầu giả tạo, hay việc cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán để thao túng giá chứng khoán.
- Tạo ra giao dịch vòng tròn, tức là người này bán cho người kia, sau một vòng giao dịch trở về người bán ban đầu, nhưng giữa người bán và người mua đều không thu được lợi nhuận, mà chỉ nhằm tạo ra cho loại chứng khoán đó thường xuyên có giao dịch mua bán trên thị trường. Giao dịch để tạo cho mức giá của loại chứng khoán đó được duy trì ổn định (không tăng, không giảm trên thị trường) được coi là giao dịch nhằm duy trì ổn định giá trên thị trường; giao dịch nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hay mở cửa cho loại chứng khoán đó trên thị trường.
b. Quy trình “làm giá” cổ phiếu:
- Cung và cầu có tác động lớn đến giá cả. Bà bá bán cá muốn bán hết hàng và bán với giá cao thì phải làm sao? cần thấy việc quyết định mua hay không mua cá là quyền của bà nội trợ. Bà bán cá không thể ép bà nội trợ phải mua cá của bà. Đã không ép được thì phải tìm cách "dụ" bà mội trợ tự nguyện mua và mua với giá cao. Từ đó phát sinh những toan tính không lành mạnh tác động đến giá cả thông qua việc tác động đến cung và cầu một cách giả tạo. Có nhiều cách để thực hiện cho mục đích này. Nhưng suy cho cùng, dù thực hiện dưới dạng hành vi nào đi chăng nữa thì cũng chỉ nhằm tạo nên cơn sốt ảo về việc có một lượng lớn người mua cá của bà. Như một tất yếu theo qui luật cung cầu bà sẽ bán cá với giá cao.
- Quy trình làm giá như sau:
“Đẩy” thế nào?
- Bên bán nhìn thấy khối lượng dư mua quá lớn thì dù có muốn bán cũng có ý nghĩ chờ đợi thêm vài phiên nữa để bán được giá cao hơn. Vì vậy khối lượng giao dịch thành công trong các phiên đẩy giá rất thấp.
Giá có thể được đẩy lên liên tục vài ngày hay cá biệt đến vài tuần. Trong quá trình lên đến đỉnh cao có một vài phiên giao dịch mạnh nhưng giá vẫn tăng gần trần hay trần.
- Cũng có trường hợp đẩy giá khéo léo (khó nhận biết hơn) theo xu hướng chung của thị trường, kết hợp giữa bán và mua. Trường hợp này thường xảy ra với các cổ phiếu có nền tảng, có các chỉ số cơ bản tốt, thương hiệu mạnh, có tính thanh khoản cao, khối lượng giao dịch bình quân mỗi ngày tương đối lớn. Các nhà đầu tư lớn với các lợi thế về vốn, kinh nghiệm đầu tư, kiến thức tài chính, khả năng nhận định xu hướng thị trường và tâm lý đám đông tốt… có thể tiến hành đẩy giá theo hình thức này.
Góp thêm vào trạng thái lạc quan quá mức này còn là hành động của một số ngân hàng nước ngoài lớn như ANZ, Standard Chartered Bank, và HSBC bỏ tiền mua cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Những động thái đầu tư chiến lược của ngân hàng nước ngoài với trị giá cao đã củng cố thêm cho suy luận mang tính đầu cơ rằng vốn nước ngoài đang ào ạt tìm đường vào Việt Nam.
D. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM:
Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2011 cần xem xét khả năng làm bùng nổ "bong bóng" trên thị trường chứng khoán, khi các luồng tiền nóng nhanh chóng được bơm vào và rút ra khỏi nền kinh tế.
Phân tích bối cảnh thế giới và trong nước năm 2011, Chính phủ nhận định đối với thị trường chứng khoán thế giới, các chỉ số chính được dự báo sẽ giảm điểm so với năm 2010. Tuy nhiên, do lãi suất ở một số nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn ở mức thấp, trong khi lãi suất ở Việt Nam hiện vẫn ở mức cao, nên dòng vốn đổ vào Việt Nam thông qua đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể có xu hướng tăng trong ngắn hạn.
Dễ thấy thị trường chứng khoán Việt Nam không vận hành theo bất cứ một quy luật nào.. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán:
Bình thường một nhóm các nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh và sáng suốt, vậy mà cũng có lúc họ lại bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà đầu tư khác hành động theo một cách thức phổ biến nào đó. Hiểu một cách đơn giản nhất thì chính sự sợ hãi bị “bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân, hàng xóm của họ có thể kiếm tiền một cách nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo của đám đông.
Sức nóng của TTCK còn “hút” cả anh hai lúa, bà bán đậu phộng đến ông xích lô… gom góp tiền dành dụm cả đời đổ vào chơi chứng khoán. Họ biết phân tích cổ phiếu , biết đoán khả năng hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi theo tâm lý bầy đàn.Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả. Khuynh hướng (bản năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước người khác. Khi thị trường lên hay xuống, nhà đầu tư sợ rằng người khác sẽ có nhiều thông tin hơn. Và hệ quả của điều này, nhà đầu tư cảm giác có sự thôi thúc ghê gớm đối với việc làm theo những gì người khác đang làm. Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho thấy hành vi đám đông thường có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt có khả năng tiên đoán thị trường. Trong trường hợp của Thị trường chứng khoán Việt Nam, “sứ mệnh” đó được giao cho nhà đầu tư nước ngoài.
Đã đến lúc cần một cái nhìn đầy đủ về tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư.
Và hẳn nhiên là trong suy nghĩ của rất nhiều người, tâm lý bầy đàn là cái gì đó rất xấu, rất đáng khinh, loại bỏ nó càng sớm càng tốt. Do đó một câu hỏi được đặt ra là làm sao để chấm dứt tâm lý bầy đàn trong các nhà đầu tư? Không có gì khó khăn - câu trả lời là không thể. Nhà đầu tư sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình theo thị trường, họ sẽ rút ra bài học từ chính những thành công và thất bại của mình. Không thế có giải pháp nào được đưa ra ở đây cả. Vì tâm lý bầy đàn (hay tâm lý đám đông) là một sự tồn tại khách quan trong bất cứ một thị trường nào không riêng gì thị trường tài chính. Các bằng chứng xã hội mà các nhà tâm lý học đưa ra sau các cuộc khảo sát hoàn toàn chứng minh được điều đó.

Hẳn nhiều người trong chúng ta đã được biết đến thí nghiệm dưới đây: Cho một người đứng ở một góc phố và nhìn lên bầu trời trống không trong 60 giây. Một số người đi đường đã dừng lại để xem người kia nhìn gì nhưng rồi đa số cũng bước qua. Lần tiếp theo, các nhà tâm lý học cho năm người làm như vậy ở góc phố đó. Lần này số người dừng lại để quan sát đông gấp 4 lần. Khi cho 15 người đứng ở góc phố đó, có tới 45% số người qua đường dừng lại và khi tăng số người đứng ở góc phố thêm một lần nữa, có tới hơn 80% người đi đường phải ngẩng đầu quan sát theo. Vì sao lại như vậy? Vì người ta cho rằng nếu có nhiều người cùng nhìn lên bầu trời thì chắc chắn rằng trên bầu trời phải có gì đó.
Đó là lý do vì sao càng có đông người, đám đông càng dễ bị ảnh hưởng: thêm một người là thêm một bằng chứng cho thấy có điều gì đó quan trọng đang xảy ra. Họ tin tưởng rằng nếu có rất nhiều người cùng thực hiện một việc gì đó thì việc đó nhất định đúng. Bằng chứng này cho thấy tất cả mọi người dường như là nếu không biết điều gì đang diễn ra thì tốt hơn hết là nên bắt chước những gì người khác đang làm. Tồn tại khách quan là thế đấy!

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Phương Thuu

New Member

Download miễn phí Đề tài Hiện tượng bong bóng và sụp đổ trên thị trường chứng khoán, liên hệ với Việt Nam





NỘI DUNG TRÌNH BÀY:
A- KHÁI QUÁT VỀ BONG BÓNG CHỨNG KHOÁN
B- HIỆN TƯỢNG BONG BÓNG VÀ SỤP ĐỔ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
I- Hiện tượng bong bóng là gì?
II- Sụp đổ là gì?
III- Phân biệt hiện tượng sụp đổ trên TTCK và trạng thái điều chỉnh thị trường.
IV- Mô hình của các giai đoạn bong bóng chứng khoán.
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán.
VI- Biện pháp hạn chế tác hại của bong bóng chứng khoán.
C- PHÂN TÍCH MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH:
I- Thị trường Chúng khoán VN trong giai đoạn đầu bong bóng.
II- Mô hình bùng-vỡ (boom-bust) trên TTCK VN 2007.
III- Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành bong bóng 2007.
D. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ác CEO của Lehman Brothers hay Goldman Sachs.
Theo Soros, thị trường tài chính có tính phản hồi, vì kỳ vọng các NĐT có thể tác động đến sự vận động của thị trường. Trên TTCK, các quyết định mua bán đều dựa trên kỳ vọng về giá cả tương lai, nhưng đến lượt nó, giá cả tương lai lại phụ thuộc vào các quyết định mua bán hiện tại.
Có thể hình dung rằng, NĐT đã tính toán giá trị nội tại từ các yếu tố cơ bản mà họ kỳ vọng sẽ diễn ra. Tuy nhiên, kỳ vọng này có thể sai và chính hành động hiện tại của các NĐT có thể tạo nên xu hướng. Sau đó, xu hướng này sẽ làm thay đổi các yếu tố cơ bản của thị trường.
Dựa trên thuyết phản hồi, Soros đã thiết lập nên "Mô hình bùng - vỡ", miêu tả quá trình: giá trị thị trường tác động lên các yếu tố cơ bản và sau đó chính các yếu tố cơ bản làm thay đổi giá trị thị trường" (trong cuốn "Thuật giả kim tài chính" năm 1987, Soros kết luận thuyết phản hồi bằng nhận định: "Giá trị thị trường là nguyên nhân thay đổi giá trị thị trường").
Ở giai đoạn đầu (1), xu thế còn chưa được nhận ra. Rồi đến giai đoạn tăng tốc (2), khi xu thế được nhận ra và tự tăng cường bởi thiên kiến thịnh hành. Một giai đoạn kiểm tra (3) có thể xen vào khi giá sụt.
Nếu thiên kiến và xu thế duy trì, cả hai hiện ra mạnh hơn bao giờ hết (4). Rồi đến giờ phút thử thách (5) khi thực tế không còn duy trì được kỳ vọng bị phóng đại, tiếp theo một giai đoạn chạng vạng (6) khi người ta tiếp tục cuộc chơi, mặc dù họ không còn tin vào nó, với hi vọng họ sẽ được cứu giúp do khôn hơn những kẻ khờ dại.
Cuối cùng đến một điểm giao (7) khi xu thế sụt giảm và ngay cả những kẻ khờ dại nhất cũng từ bỏ hi vọng. Điều này dẫn đến một sự gia tốc thảm khốc theo chiều ngược lại (8), thường được biết đến như một "sự sụp đổ".
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán:
1. Các Big Boys (người có nguồn vốn lớn) trên TTCK lợi dụng tâm lý bầy đàn để thao túng thị trường hay còn gọi là hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK.
a. Hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK là gì?
- Quy định tại điều 28, Mục 6 về vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán của Nghị định 36/2007/NĐ-CP, hành vi thao túng giá cổ phiếu TTCK được ghi rõ: là hành vi của các NĐT cá nhân hay NĐT tổ chức thực hiện các giao dịch để làm cho mọi NĐT khác hiểu sai lệch về thị trường, tạo ra cung cầu giả tạo, hay việc cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán để thao túng giá chứng khoán.
- Tạo ra giao dịch vòng tròn, tức là người này bán cho người kia, sau một vòng giao dịch trở về người bán ban đầu, nhưng giữa người bán và người mua đều không thu được lợi nhuận, mà chỉ nhằm tạo ra cho loại chứng khoán đó thường xuyên có giao dịch mua bán trên thị trường. Giao dịch để tạo cho mức giá của loại chứng khoán đó được duy trì ổn định (không tăng, không giảm trên thị trường) được coi là giao dịch nhằm duy trì ổn định giá trên thị trường; giao dịch nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hay mở cửa cho loại chứng khoán đó trên thị trường.
b. Quy trình “làm giá” cổ phiếu:
- Cung và cầu có tác động lớn đến giá cả. Bà bá bán cá muốn bán hết hàng và bán với giá cao thì phải làm sao? cần thấy việc quyết định mua hay không mua cá là quyền của bà nội trợ. Bà bán cá không thể ép bà nội trợ phải mua cá của bà. Đã không ép được thì phải tìm cách "dụ" bà mội trợ tự nguyện mua và mua với giá cao. Từ đó phát sinh những toan tính không lành mạnh tác động đến giá cả thông qua việc tác động đến cung và cầu một cách giả tạo. Có nhiều cách để thực hiện cho mục đích này. Nhưng suy cho cùng, dù thực hiện dưới dạng hành vi nào đi chăng nữa thì cũng chỉ nhằm tạo nên cơn sốt ảo về việc có một lượng lớn người mua cá của bà. Như một tất yếu theo qui luật cung cầu bà sẽ bán cá với giá cao.
- Quy trình làm giá như sau:
“Đẩy” thế nào?
- Bên bán nhìn thấy khối lượng dư mua quá lớn thì dù có muốn bán cũng có ý nghĩ chờ đợi thêm vài phiên nữa để bán được giá cao hơn. Vì vậy khối lượng giao dịch thành công trong các phiên đẩy giá rất thấp.
Giá có thể được đẩy lên liên tục vài ngày hay cá biệt đến vài tuần. Trong quá trình lên đến đỉnh cao có một vài phiên giao dịch mạnh nhưng giá vẫn tăng gần trần hay trần.
- Cũng có trường hợp đẩy giá khéo léo (khó nhận biết hơn) theo xu hướng chung của thị trường, kết hợp giữa bán và mua. Trường hợp này thường xảy ra với các cổ phiếu có nền tảng, có các chỉ số cơ bản tốt, thương hiệu mạnh, có tính thanh khoản cao, khối lượng giao dịch bình quân mỗi ngày tương đối lớn. Các nhà đầu tư lớn với các lợi thế về vốn, kinh nghiệm đầu tư, kiến thức tài chính, khả năng nhận định xu hướng thị trường và tâm lý đám đông tốt… có thể tiến hành đẩy giá theo hình thức này.
Họ tiến hành bán ra mạnh ở mức giá cao gần trần trong tài khoản A. Các nhà đầu tư nhỏ nhận thấy lượng đặt bán ở giá cao nhiều quá nên nghĩ rằng giá khó tăng cao hơn nên họ bán ra ở các mức giá thấp hơn.
Khi khối lượng bán tăng cao và ở các mức giá thấp thì nhà đầu tư lớn tiến hành mua lại ở tài khoản B, khối lượng bán suy giảm thì các nhà đầu tư nhỏ khác lại tranh mua giá cao hơn và nhà đầu tư lớn không tốn nhiều sức lực để đưa giá lên cao trở lại.
Đặc điểm của cách thức đẩy giá này là khối lượng giao dịch vẫn tốt trong các phiên giao dịch, giá vẫn tăng mặc dù có thể không tăng trần liên tiếp. Giá biến động trong các phiên giao dịch chứ không dư mua áp đảo.
Ở hình thức này các nhà đầu nhỏ có thể tham gia nếu nhận định tốt xu hướng của thị truờng vì có thể mua được cổ phiếu trong quá trình giá tăng nhưng không nên mạo hiểm tham gia khi mức giá đã tăng quá cao. Thời gian qua, có một cổ phiếu đã tăng hơn 200% từ 26.000đ/CP lên đến đỉnh cao gần 80.000đ/CP trong trường hợp này.
Hai đẳng cấp “xả hàng”
- Sau quá trình đẩy giá, các nhà đầu tư lớn sẽ hoạch định việc xả hàng ở các mức giá cao. Họ đặt mua ào ạt cổ phiếu ở giá trần nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các nhà đầu tư khác.
- Cách thức đẳng cấp cao hơn là nhà đầu tư lớn đầu giờ đặt mua giá trần và ATO với khối lượng lớn, các nhà đầu tư khác cũng tranh giành đặt lệnh mua giá trần để chờ khớp, vì lượng mua quá lớn nên phiên đầu tiên khối lượng khớp thường không đáng kể.
2. Các chính sách của Chính phủ khuyến khích càng nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường.
3. Giá cổ phiếu càng lên cao thì lòng tham của con người càng mạnh mẽ, khiến cho NĐT trên thị trường không nhìn nhận thấy mối nguy hiểm đằng sau mức lợi nhuận khổng lồ.
4. Sự quản lý không chặt chẽ đối với các Quỹ đầu tư.
5. Tin tức sai sự thật xuất hiện tràn lan nhằm “làm giá” CP khiến nhà đầu tư nhận biết sai về thị trường và mục đích cuối cùng là cũng chỉ để làm giá cổ phiếu.
VI- Biện pháp hạn chế tác hại của bong bóng chứng khoán:
Làm sao để tránh hay hạn chế tác hại của các bong bóng là vấn đề chính sách hóc búa. Có thể làm lạnh những cơn sốt thị trường...
Cho mình xin bản full với ạ ..Mình Thank nhiều
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top