Rocky

New Member

Download miễn phí Đề tài Thói quen tiêu dùng kẹo cao su của người tiêu dùng Việt Nam và thực trạng quảng cáo các sản phẩm kẹo cao su ở Việt Nam





Kẹo cao su ban đầu xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu là dành cho đối tượng trẻ em, là kẹo mềm với hiệu quả là đáp ứng sự khoái khẩu cũng như vui thú khi thổi ra những quả bóng bằng kẹo cao su. Đó gần như là ý niệm đầu tiên của người Việt Nam về kẹo cao su. Khi ấy kẹo cao su được rất ít người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận. Chỉ những gia đình chiều chuộng con cái, hay hay cho con tiền tiêu vặt thì trẻ mới có tiền thường xuyên mua kẹo cao su để ăn và khoe với bạn bè. Loại thường được ưa thích là Bigbabol với vị ngọt đậm và rất mềmm sau đó là Doublemint với hương quế thơm ngon hay vị bạc hà the mát.
 
Dần dần càng ngày kẹo cao su càng phát triển ở Việt Nam. Đối với lớp thanh niên thì khẩu vị và nhu cầu về kẹo cao su sẽ khác và phong phú hơn nhiều. Ưa chuộng nhất là các loại có hương bạc hà thơm mát, gây cảm giác sảng khoái, dễ chịu hay các hương vị gây kích thích. Nhu cầu đã phong phú, cách họ tiêu dùng kẹo cao su cũng để giải quyết rất nhiều thứ khác nhau.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ua việc xuất khẩu hàng hóa sang nhiều nước, Uwrigley đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Một cách nhanh chóng, công ty đã trở thành một cơ sở kinh doanh có tầm vóc quốc tế. Công xưởng đầu tiên được mở ra ở nước ngoài là tại Canada vào năm 1910, năm 1915 – công xưởng thứ hai tại Australia, năm 1927 tại Anh, 1939 tại New Zealand. Những môi trường kinh doanh khách nhau trên thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều mẫu mã, chủng loại cũng như hương vị mới. Trong số đó có lẽ sản phẩm thành công nhất ở nước ngoài là kẹo cao su dạng viên tròn – loại kẹo được bán rất phổ biến dưới nhãn hiệu “P.K”.
Trong suốt chiến tranh thế giới 2 Phillip Wrigley – con trai và sau này là chủ tịch công ty – đã dẫn dắt công ty với những bước đi mới lạ nhằm bảo vệ danh tiếng của nhãn hiệu. Vì chiến tranh, việc cung cấp những nguyên liệu bị chững lại, trong khi đó thì nhu cầu kẹo cao su lại tăng cao. Một lượng lớn kẹo cao su được cung cấp cho quân đội Hoa Kỳ, từ đó kẹo cao su đã giúp xóa tan lo âu, nâng cao cảnh giác và cải thiện tinh thần của các chiên sỹ.
Công ty sản xuất kẹo chất lượng cao với lượng khá lớn tuy nhiên vẫn không đủ để cung cấp cho khách hàng. Do đó tốt hơn là nên thay đổi loại kẹo chất lượng cao mà khách hàng vẫn yêu cầu. Chính vì vậy công ty đã tiến hành ngừng cung cấp kẹo nhãn hiệu Wrigley loại Spearmint, Doublemint và Juicy Fruit cho dân chúng. Tới năm 1944, toàn bộ kẹo sản xuất ra được xuất trực tiếp ra nước ngoài cho Quân đội Hoa Kỳ.
Đối với dân chúng, công ty tiến hành tung ra một “nhãn hiệu thời chiên”. Một cách rất chân thực, công ty thông báo với khách hàng rằng sản phẩm này là hoàn toàn nguyên chất, có lợi cho sức khỏe, tuy nhiên không đủ điều kiện để tiêu chuẩn mang nhãn hiệu Wrigley.
Sau đó một thời gian những nguyên liệu chất lượng cao trở nên khan hiếm đến mức sản xuất không thể đạt được mức lượng kẹo sản xuất trước chiến tranh không đủ để cung cấp thậm chí cho quân đội Mỹ. Do vậy công ty đã dừng hoàn toàn việc mở rộng chi nhánh, và đặc biệt “nhãn hiệu thời chiến” được cung cấp cho quân đội. Cũng thời gian đó một chiến dịch quảng cáo độc nhất vô nhị đã được tiến hành và nó đã giúp tên tuổi cũng như chất lượng của kẹo cao su Wrigley trở nên thân quen với khách hàng, thậm chí ngay cả khi họ không thể mua được nó. Quảng cáo khá kịch tính với hình tượng một gói bọc kẹo cao su Spearmint trống rỗng nhãn hiệu Wrigley với câu “Hãy nhớ giấy bọc này”.
Sau khi chiến tranh kết thúc việc mua bán những nguyên liệu để dùng cho việc sản xuất kẹo chất lượng cao lại trở về như bình thường, vì vậy tới năm 1946 Wrigley’s Spearmint đã trở lại thị trường, sau đó là Juicy Fruit và năm 1947 là Doublemint. Mặc dù đã vắng mặt hai năm tại Mỹ nhưng Wrigley vẫn chiếm lại thị trường một cách nhanh chóng và sau đó hoạt động kinh doanh trở nên phát triể vượt mức trước chiến tranh. Việc tiếp theo của công ty Wrigley là tập trung mở rộng ra kinh doanh toàn cầu.
Thêm vào những cơ sở trước đây ở Chicago, Australia, Canada, Anh và New Zealand công ty mở them những văn phòng mua bán ở Châu Âu và Châu Á. Để đáp ứng lượng tăng cầu sản phẩm Wrigley, nhiều nhà máy đã được mở thêm tại: Malina thuộc Philippines (1965), Biesheim, Pháp (1967); Salzburg, Australia (1968); Nairobi, Kenya (1971) và Taipen, Taiwan (1978). Sau đó, để đáp ứng yêu cầu thay đổi trong kinh doanh, công ty đã tiến hành hợp nhất những công nghệ máy móc mới hiện đại hơn thay thế cho những cái trước đây. Năm 1954 tiến hành thay đổi ở New Zealand, năm 1958 ở Australia, năm 1963 ở Canada, năm 1971 ở Anh và ở Đài Loan vào năm 1985. Và vào mùa xuân năm 1991 để chinh phục một thị trường mới, công ty đã mở một nhà máy ở Quảng Châu, Trung Quốc, ở Mỹ thì xây dựng thêm nhà máy ở Santa Cruz, Canifonia năm 1954 và Gainesville, Georgia.
Để thay đổi sở thích của khách hàng, Wrigley đã giới thiệu kẹo cao su Freedent, kẹo hương quế Big Red và kẹo cao su dùng thay đổi bong bong lớn Hubba Bubba vào giữa những năm 1970. Để đáp ứng nhu cầu về sản phẩm có vị ngọt ngon hơn, vào năm 1984 Wrigley đã cho ra đời kẹo cao su ngọt nhiều hơn dưới tên Extra. Ngày nay những kẹo cao su nhãn hiệu Wrigley đã trở thành sản phẩm yêu thích của hơn 100 quốc gia trên thế giới và Wrigley được coi là công ty hàng đầu trong lĩnh vực này.
1.2 Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ
Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời loại kẹo cao su có thể tạo ra bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng gây được tiếng vang nào. Bóng nổ ngay sau khi ra khỏi miệng và cao su văng dính khắp mặt. Cho đến một ngày tháng 8-1928, một công nhân của Fleer tên Walter Diemer đã tìm ra lời giải.
Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer đã tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi bóng nổ thì lớp cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép trọng lượng và số lượng các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành công. Chewing-gum này được đặt tên Dubble Bubble.
Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả từ sự thiếu thốn trong Thế chiến thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên. Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau.
Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên “danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và một năm sau nó mua luôn Bowman.
Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.
1.3 Tiêu thụ kẹo cao su ở một số nước ở Châu Âu
Theo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới 90% thị trường kẹo cao su tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các nước Đông Âu về nhai kẹo cao su. Năm ngoái trung bình mỗi người Séc nhai hết 128 chiếc. Trong những nước thuộc khối Đông Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau Slovenia và Croatia.
Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ và Tây Âu, nơi tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu người.
Trung bình mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su, người Croatia 160 chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu với 110 chiếc. Đứng cuối bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình 66 chiếc kẹo cao...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top