sailor_moon

New Member

Download miễn phí Gây mê hồi sức trong phẫu thuậtcắt thận qua nội soi





Thời gian gây mê –phẫu thuật: 126,7 ± 40,0 phút (45 –230 phút)
Có 35 (42,7%) bệnh nhân được cắt thận qua NSOB và 47 (57,3%) qua ngã NSHL;
bao gồm 50 (61%) trường hợp thận mất chức năng, 25 (30,5%) trường hợp bướu
thận, 5 (6,1%) trường hợp thận đôi, 1 (1,2%) bướu niệu quản và 1(1,2%) trường
hợp u cực trên thận. Có 2 trường hợp chuyển mổ mở, 1 trường hợp tăng thán khí
máu nặng không kiểm soát được do tràn khí dưới da, 1 trường hợp bướu thận dính
nhiều.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬTCẮT THẬN QUA NỘI SOI
TÓM TẮT
Mục tiêu: xác định các tai biến gây mê gây ra khi bơm thán khí vào phúc mạc
trong cắt thận qua ngã nội soi.
Thiết kế nghiên cứu: tiền cứu, cắt ngang.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 82 bệnh nhân ASA từ I – III, tuổi trung
bình 47,8 ± 15,9 tuổi, được phẫu thuật chương trình cắt thận qua ngã nội soi ổ
bụng hay sau phúc mạc, từ tháng 04/2005 đến tháng 06 /2007 tại bệnh viện Bình
Dân.
Kết quả: nhịp tim và huyết áp trung bình tăng có ý nghĩa trong khoảng 10 phút đầu
sau khi bơm hơi (P<0.05), sau đó dần trở về bình thường. PetCO2 tăng liên tục và
đạt đến mức bình nguyên khoảng 30 phút sau khi bơm hơi. Toan hô hấp xuất hiện
khoảng 30 – 45 phút sau bơm hơi (P<0.05). Có 11 trường hợp tràn khí dưới da.
Phẫu thuật phải tạm dừng để tăng thải CO2 và tiếp tục lại khi đã điều chỉnh giảm
mức thán khí. Ngoại trừ tràn khí dưới da, các trường hợp tăng PaCO2 có thể điều
chỉnh bằng cách tăng thông khí phút lên khoảng 15% đến 25%.
Kết luận: phẫu thuật nội soi cắt thận khá an toàn, xâm lấn tối thiểu. Tuy nhiên,
trong lúc bơm hơi, cần kiểm soát thông khí để duy trì mức thán khí trong máu
bình thường.
ABSTRACT
ANESTHESIA FOR LAPAROSCOPIC NEPHRECTOMY
Tran Do Anh Vu, Ho Minh Le, Tran Thi Ngoc Phuong, Nguyen Thi Bich Hong,
Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 -
2009: 441 - 446
Background: Over the last decade laparoscopy has been popularized and become
the procedure of choice for many disorders in various specialities, mainly because
it is as effective as open surgery but is associated with a lower requirement for
postoperative analgesia, decreased length of hospitalization, faster convalescence
and better cosmetic results. With advances in instrumentation and increasing
surgical experience many open urological procedures can be done
laparoscopically.
Objectives: the purpose of our study to determine anesthesia complications caused
by peritoneal carbon dioxide (CO2) insufflation during laparoscopic nephrectomy.
Study design: prospective, cross-sectional study.
Patients and methods: 82 ASA physical status I – III patients, average 47.8 ± 15.9
yr, who underwent elective laparoscopic nephrectomy through intraperitoneal and
retroperitoneal approach from 2005 Apr to 2007 Jun at Binh Dan hospital were
studied.
Results: heart rate and mean arterial blood pressure increased significantly within
first 10 minutes of insufflation (P<0.05), and returned gradually at the baseline
level. PetCO2 progressively increased to reach a plateau 30 minutes after
peritoneal CO2 insufflation. Respiratory acidosis occurred 30 – 45 minutes after
CO2 insufflation (P<0.05). There were 11 cases CO2 subcutaneous emphysema.
Laparoscopy must be temporarily interrupted to allow CO2 elimination and can be
resumed after correction of hypercarbia. Except in CO2 subcutaneous emphysema,
correction of increased PaCO2 can be achieved by 15% to 25% increase of minute
ventilation.
Conclusions: laparoscopic nephrectomy is safety and minimally invasive
procedure. However, during peritoneal CO2 insufflation, controlled ventilation
must be adjusted to maintain normocarbia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật cắt thận qua nội soi được thực hiện tại bệnh viện Bình Dân Tp.Hồ Chí
Minh trong hơn 3 năm qua. Nghiên cứu cắt thận nội soi về phương diện gây mê
hồi sức trong nước hầu như chưa được tiến hành. Vì vậy chúng tui thực hiện
nghiên cứu này nhằm mục tiêu xác định các tai biến gây mê thường xảy ra trong
phẫu thuật cắt thận qua ngã nội soi, đặc biệt là các rối loạn về kiềm toan xảy ra khi
bơm thán khí vào phúc mạc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu liên tiếp trên các bệnh nhân nhập bệnh
viện Bình Dân TP.Hồ Chí Minh, có chỉ định cắt thận do bệnh lý lành hay ác tính,
được phẫu thuật qua ngã nội soi ổ bụng hay sau phúc mạc, bệnh nhân đồng ý và
ký vào cam kết gây mê-phẫu thuật.
Đánh giá bệnh nhân trước mổ
* Đánh giá bệnh nhân trước mổ
Bệnh sử và khám lâm sàng: tổng trạng chung, chức năng tim mạch, hô hấp, bệnh
đi kèm.
Cận lâm sàng: công thức máu, ion đồ máu, đường huyết, chức năng đông máu
toàn bộ, chức năng gan, chức năng thận, Xquang ngực thẳng. Đánh giá tình trạng
tim mạch gồm ECG, siêu âm tim được làm theo chỉ định của bác sĩ tim mạch hay
bác sĩ gây mê.
* Đánh giá nguy cơ phẫu thuật theo ASA.
Kỹ thuật gây mê hồi sức
Tất cả các bệnh nhân đều được gây mê toàn diện qua ống nội khí quản, thông khí
kiểm soát. Trước khi dẫn đầu gây mê, bệnh nhân được đặt một đường truyền tĩnh
mạch kim 18G, dung dịch NaCl 0,9% hay Ringer Lactate.
Các phương tiện kiểm báo
ECG 3 điện cực
Huyết áp tự động xâm lấn hay không xâm lấn.
Độ bão hòa oxy qua mạch nẩy (SpO2)
Phân áp CO2 trong khí thở ra (PetCO2)
Nồng độ khí mê isoflurane trong khí thở ra (etIso)
Dẫn đầu gây mê được thực hiện với thuốc Midazolam 2mg, Fentanyl 1 – 3
mcg/kg, thuốc mê tĩnh mạch Propofol 1,5 – 2,5 mg/kg, thuốc dãn cơ Rocuronium
(Esmeron) hay Atracurium (Tracrium).
Duy trì gây mê bằng thuốc mê hô hấp Isoflurane với nồng độ khoảng 1,5 – 2 MAC
và oxy. Trước khi bắt đầu phẫu thuật, cho thêm thuốc giảm đau Fentanyl 2
mcg/kg, sau đó Fentanyl được cho cách khoảng hay truyền liên tục tùy nhu cầu
của bệnh nhân. Duy trì huyết áp ổn định trong khoảng 20% mức cơ bản của bệnh
nhân. Bệnh nhân được thông khí kiểm soát với cài đặt ban đầu: thể tích khí lưu
thông 10 ml/kg, tần số 12 lần/phút. Sau đó điều chỉnh máy thở để giữ cho PetCO2
trong khoảng 35 ± 5 mmHg.
Sau khi dẫn đầu gây mê, 1 catheter được đặt ở vị trí động mạch quay để theo dõi
huyết áp động mạch liên tục và lấy mẫu máu động mạch để phân tích khí máu.
Giảm đau sau mổ bằng Paracetamol (Perfalgan 1g/100ml), phối hợp thêm
Pethidine khi cần.
Các biến số theo dõi và phân tích
Mạch, huyết áp: ngay trước khi khởi mê, trước khi bơm hơi và mỗi 10 phút sau
bơm hơi.
Theo dõi PetCO2­ trước khi bơm hơi và mỗi 10 phút sau bơm hơi. Duy trì PetCO2
trong khoảng 35 ± 5 mmHg. Chuyển sang phẫu thuật mở nếu PetCO2 không thể
duy trì được ở mức dưới 60 mmHg và dự kiến phẫu thuật khó khăn còn phải kéo
dài.
Các mẫu khí máu được phân tích ở các thời điểm: trước khi rạch da, sau bơm hơi
CO2 khoảng 30 – 45 phút, và khoảng 60 phút sau ở phòng hồi tỉnh.
Thời gian nằm viện sau phẫu thuật.
Tai biến tim mạch quanh mổ
Mạch: chậm dưới 60 lần/phút trên 5phút; nhanh trên 100 lần/phút trên 5 phút.
Huyết áp: tăng hay giảm hơn 30% mức cơ bản trên 5 phút
Loạn nhịp tim.
ST chênh > 1mm trên 5phút.
Nhồi máu cơ tim: phối hợp ECG và định lượng Troponin.
Tai biến hô hấp quanh mổ
Co thắt thanh quản, phế quản.
Viêm phổi do hít dịch dạ dày trào ngược.
Suy hô hấp, viêm phổi, xẹp phổi.
Tràn khí dưới da, thuyên tắc khí.
Rối loạn thăng bằng kiềm toan.
Xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm phân tích thống kê SPSS 13.0 for
Windows.
Mức ý nghĩa trong toàn bộ nghiên cứu là P<0,05.
KẾT QUẢ
Từ tháng 04 / 2005 đến tháng 06 / 2007, tại bệnh viện Bình Dân, chúng tui đã thực
hiện gây mê phẫu thuật cho 82 trường hợp cắt thận nội soi, 47 cắt thận qua ngã nội
soi sau phúc mạc (NSHL), 35 qua ngã nội soi ổ bụng (NSOB).
Phân bố tuổi và ASA
Đặc đi
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top