toiyeusexvasex

New Member

Download miễn phí Đảm bảo chất lượng dịch vụ trên mạng IP bằng phương pháp Diffserv





GRNET là mạng khoa học và giáo dục quốc gia của Hy lạp. GRNET là sựkết hợp mạng
Ethernet và IP, hoạt động ởtốc độGigabit. Cùng với các mạng LAN tốc độcao của các
trường cao đẳng, đại học, các viện nghiên cứu, học viện ởChâu Âu, GRNET tạo thành một
tập hợp các mạng được tổchức phân cấp. Topo hai mạng MAN chính của GRNET chỉra
trong hình 3 (a) và (b). Nhưhình vẽ, Athens MAN được dựa trên các bộ định tuyến, ngược
lại Crete MAN mới hơn được dựa trên switch, với một bộ định tuyến tại nơi kết hợp chính
(Heraklio). Cảhai mạng được xây dựng trên vòng DWDM không được bảo vệ; Athens
MAN dùng lambdasSTM-16, ngược lại Crete MAN hoạt động ở lambdasEthernet 1
Gigabit. Géant được biểu diễn trong hình 3 (a) nhưlà một thuê bao của Athens MAN.
QoS của GRNET dựa trên các loại lưu lượng và cơchếxếp hàng.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ợc giới hạn thực hiện trong các vùng mang tính thử
nghiệm.
Giao thức luồng Internet (ST): Giao thức luồng Internet được biết đến với cái tên ST là sự cố
gắng để điều tiết luồng lưu lượng thời gian thực song song với lưu lượng TCP/IP bằng cách
thêm vào giao thức mạng hướng kết nối thứ hai song song với giao thức IP. Phương pháp
này cũng chỉ giới hạn thí nghiệm.
Dịch vụ tích hợp (IntServ): Nhóm làm việc IntServ của IETF đã phát triển kỹ thuật này để hỗ
trợ cho các ứng dụng thời gian thực trên mạng Internet. Mô hình IntServ yêu cầu dành trước
tài nguyên cho mỗi một phiên. Việc dành trước này sử dụng giao thức dành trước nguồn tài
nguyên (RSVP). Một khái niệm quan trong trong IntServ là điều khiển thu nạp (Ví dụ: quá
184
trình từ chối nhận lưu lượng vào khi nguồn tài nguyên không sẵn sàng). Nếu yêu cầu RSVP
thất bại, phiên sẽ không được bắt đầu (hay sẽ thực hiện trong một cách suy biến).
Mặc dù IntServ có một số thuận lợi nhưng có những hạn chế nhất định. Các hạn chế của
IntServ phần lớn vì phương pháp của nó không sử dụng nguồn gốc thành công của IP và
chấp nhận khái niệm “QoS nghĩa là các kết nối”. Mô hình hướng kết nối không thể được sử
dụng để mang một QoS đầu cuối-đầu cuối cho Internet vì nó giả định một mô hình “phẳng”
của internet.
II. Đảm bảo QoS bằng phương pháp Diffserv.
Gần đây IETF đưa ra một cách tiếp cận, phân biệt dịch vụ (DiffServ), hiện tại đang được
hoàn thiện bởi IETF và được thực hiện bởi nhiều nhà cung cấp. DiffServ dựa trên một khung
kiến trúc nhận dạng các thực thể liên quan tới việc đảm bảo dịch vụ trên mạng IP. Mô hình
được hướng tới dịch vụ biên-biên ngang qua một vùng với mức thoả thuận dịch vụ thích hợp
giả thiết đặt ở đúng biên của vùng. Các mức phân biệt dịch vụ sẽ yêu cầu hợp đồng giữa các
nhà cung cấp gần kề.
Các mạng IP chuyển giao các gói với loại dịch vụ được biết đến như là “Best-Effort”. Không
có sự định lượng cố định trong định nghĩa của nó và các gói có cùng độ trễ xử lý khi truyền
qua mạng. Sự phát triển của lưu lượng gói tiếng nói và video yêu cầu các mức dịch vụ khác
nhau cho lưu lượng gói. Gần đây các nguyên nhân kinh tế làm nảy sinh nhu cầu phân biệt
lưu lượng và một số phương pháp thực hiện phân biệt lưu lượng trong các mạng IP.
Mục tiêu của QoS trên mạng IP
Mục tiêu của QoS là chất lượng xử lý tuỳ từng trường hợp vào mỗi gói truyền qua mạng. QoS không
thể tạo ra thêm băng thông, vì vậy khi một vài gói nhận được xử lý tốt hơn thì các gói khác
sẽ nhận được xử lý xấu hơn. Một kiến trúc QoS phù hợp phải cung cấp các phương tiện để
chỉ rõ các mục tiêu thực hiện đối với các loại gói khác nhau.
Các nhà cung cấp dịch vụ đưa ra một hợp đồng mức dịch vụ bao gồm mức chất lượng mà
khách hàng có thể nhận được đối với loại lưu lượng (hay “Best-Effort”) mà họ hiện sử
dụng. Sự đảm bảo như vậy phổ biến trong mạng Internet ngày nay.
Kỹ thuật điện thoại gói làm việc tốt với các mức dịch vụ khác nhau, một yêu cầu băng thông
nhỏ nhưng mức độ biến động trễ điều khiển lớn là thiết thực khi xảy ra tắc nghẽn.
Điều khiển tài nguyên QoS.
QoS cung cấp cách để một vài gói được xử lý tốt hơn các gói khác. Điều này dẫn tới
việc thực thể nào quyết định các mức QoS được nhận. Một khả năng là cho phép người dùng
cuối đánh dấu các gói của họ để quyết định gói nào nhận QoS tốt nhất. Mặc dù điều này có
lợi thế là người dùng biết được gói nào là “quan trọng nhất”, nhưng rõ ràng không thể thực
hiện được khi sự mong muốn của người dùng không phản ánh mong muốn của thực thể
thanh toán chi phí, và người dùng cuối không biết được mô hình mạng hiện tại có thể thêm
vào các gói của mức QoS hay không. Hơn nữa, một người dùng cuối có thể không biết loại
QoS nào là thích hợp cho cuộc gọi thoại hay truyền file.
QoS phải được cấp phát linh hoạt chính sách và quyền ưu tiên. Mỗi yêu cầu mới đối với QoS
phải được đánh giá cả trên phương diện chính sách lẫn sự cấp phát hiện tại.
Cơ chế cơ bản cho đường dẫn chuyển tiếp.
Để đưa ra các xử lý khác nhau đối với các gói khác nhau, cơ sở hạ tầng mạng phải có khả
năng phân biệt các gói thông qua cách phân loại, sắp xếp vào hàng các gói riêng lẻ
như là kết quả của sự phân loại, quản lý việc xử lý khác nhau, cũng như cung cấp phương
tiện đo đạc, giám sát và quy định lưu lượng để đạt được các yêu cầu mức QoS khác nhau.
185
Tất cả điều này có thể được thực thi thông qua các cơ chế trong đường chuyển tiếp gói. Có
nhiều luồng gói yêu cầu xử lý QoS khác nhau, nhưng số lượng cách thức mà một gói có thể
được xử lý trong đường chuyển tiếp là giới hạn, tổng số các luồng riêng tuỳ từng trường hợp việc xử lý
chuyển tiếp gói; dẫn tới giảm bớt trạng thái và độ phức tạp.
Nhu cầu đối với QoS trên các đường dẫn chuyển tiếp tốc độ cao cần tất cả cơ chế bên trong
đường dẫn chuyển tiếp thực thi ở tốc độ cao. Hơn nữa các cơ chế của đường chuyển tiếp
phải được tập hợp dễ dàng mà không làm phát sinh các vấn đề phụ.
Xây dựng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối.
Truy cập tới QoS phải được cấp phát ở mức cục bộ, phù hợp cho mỗi mạng độc lập của
Internet, nhưng mục tiêu cuối cùng là cung cấp QoS đầu cuối-đầu cuối ngang qua vùng QoS.
Một vùng không thể cấp phát nguồn tài nguyên của vùng khác, vì vậy chúng ta chờ đợi các
giải pháp tiếp theo và mở rộng các mô hình đã tồn tại.
Một phương pháp QoS đầu cuối-đầu cuối là hướng kết nối hay hướng cuộc gọi. Đối với
hướng kết nối, một đường riêng được thiết lập giữa các điểm đầu cuối của một cuộc hội
thoại và nguồn tài nguyên được dành trước dọc theo đường dẫn này. Nếu nguồn tài nguyên
không sẵn có dọc theo toàn bộ đường dẫn, kết nối bị từ chối. Đây là phương pháp điện thoại
chuyển mạch kênh áp dụng cho mạng IP. Các kết nối ràng buộc tài nguyên, yêu cầu trạng
thái cho mỗi kết nối, có báo hiệu ở đầu mỗi kết nối, và không tăng thêm khả năng triển khai
và khả năng biến đổi. Điều này vi phạm rất nhiều nguyên tắc cơ bản mà mạng IP được xây
dựng để dẫn đến sự thành công của nó.
Đối với phương pháp hướng cuộc gọi, đưa ra mô hình đám mây. Khi quyết định cấp phát
nguồn tài nguyên trong phạm vi mỗi đám mây, các vấn đề bên ngoài đám mây chỉ là hoạt
động ngang qua ranh giới với các đám mây gần kề. Lưu lượng gói được phân loại thành lưu
lượng tổng dựa trên các quy tắc cục bộ và đặc tính lưu lượng tổng được kiểm tra ở phần ranh
giới mạng. Khi ngang qua ranh giới, một số quy tắc cần thiết cho việc chấp nhận lưu lượng
vào/ra. Nếu mỗi đám mây phân loại tất cả các yêu cầu QoS của nó thành các tổng chuyển
tiếp khác nhau, thì lưu lượng gói ngang qua ranh giới chỉ cần được phân loại, giám sát trên
số lượng tổng này vì vậy chỉ cần một số lượng nhỏ trạng thái. Phương pháp n...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top