tkhoa94

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Lịch sử hình thành cấu trúc nguyên tử





MỤC LỤC
I. THUYẾT NGUYÊN TỬ SƠ KHAI. . . 4
1. Thuyết nguyên tử luận của Democriet . . . 4
2. Thuyết bốn nguyên tố của Aristote. . . 5
II. THUYẾT NGUYÊN TỬ Ở THẾ KỶ XVIII . . 6
III. LÝ THUYẾT NGUYÊN TỬ Ở THẾ KỶ XIX . . 6
1. Lý thuyết nguyên tử của Dalton . . . 6
2. Lý thuyết nguyên tử của Avogađro . . . 7
IV. LÝ THUYẾT NGUYÊN TỬ THẾ KỶ XX. . . 8
1. Mẫu nguyên tử của Thomson . . . 8
2. Mẫu nguyên tử Rutherford . . . 9
3. Mẫu nguyên tử bán cổ điển Bohr . . . 10
4. Mẫu nguyên tử có quĩ đạo elip của Sommorfold . . 10
V. CẤU TRÚC NGUYÊN TỬ THEO THUYẾT CƠ HỌC LƯỢNG TỬ. 11
1. Bản chất sóng và hạt của các hạt vi mô . . . 11
2. Phương trình Schrodinger . . . 12
3. Nguyên lý bất định Heisenberg . . . 12
VI. MÔ HÌNH NGUYÊN TỬ HIỆN ĐẠI . . . 13
1. Nguyên tử theo quan điểm hiện đại . . . 13
2. Lịch sử tìm ra electron . . . 14
3. Cấu trúc hạt nhân . . . . 14
KẾT LUẬN SƯ PHẠM . . . . 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . 18



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ạp cổ đại Democrite.
Nội dung của thuyết nguyên tử luận của Democrite:
Không có cái gì phát sinh ra từ cái không có gì. Không có cái gì đang tồn tại lại
có thể bị hủy diệt. Mọi sự đều do các bộ phận hợp lại với nhau và tách khỏi
nhau.
Không có cái gì ngẫu nhiên xảy ra, cái gì xảy ra cũng có nguyên nhân và là tất
yếu.
Chỉ nguyên tử và không gian trống rỗng là có thật, mọi cái khác điều do tưởng
tượng ra.
Các nguyên tử nhiều vô hạn và có vô số hình dạng, rơi vĩnh viễn trong không
gian vô tận. Những hạt to rơi nhanh hơn, va đập vào những hạt nhỏ gây ra
những chuyển động xiên và xoáy tạo thành các thế giới. Có vô số thế giới luôn
luôn sinh ra hay mất đi.
Các nguyên tử hoàn toàn giống nhau về chất lượng, chúng tác động lên nhau
bằng sức nén và va chạm. Các vật khác nhau vì được tạo thành bởi những
nguyên tử có số lượng, độ lớn hình dạng và cách sắp xếp khác nhau.
Không có gì phi vật chất, tâm hồn và các thần linh cũng được tạo thành từ
những nguyên tử tinh tế, nhẵn nhụi, tròn trịa linh hoạt nhất. Chúng chuyển
động, xuyên thấu vào cơ thể, và tạo ra mọi hiện tượng của sự sống.
Trong học thuyết của Democrit, nguyên lý bảo toàn có vai trò rất quan trọng. Chân không là
một khái niệm mới, chưa có trong các thuyết trước đó, và các nguyên tử tự mình chuyển
động trong chân không, không cần một thần linh hay trí tuệ nào khác, tạo ra mọi hiện tượng
trong thế giới. Theo nguyên tử luận, vật chất và chuyển động là cơ sở của tồn tại.
Democriet
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CẤU TRÚC NGUYÊN TỬ
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thếp Trang: 5
Tóm lại, theo Democrite thì vật chất được cấu tạo từ nguyên tử và chân không. Như vậy,
nguyên tử luận của Democrite nhằm giải quyết vấn đề vật chất cấu tạo như thế nào của khoa
học.
2. Thuyết bốn nguyên tố của Aristote
Nhà triết học vĩ đại Aristote đã hoàn toàn phủ nhận nguyên tử luận vì theo ông, chân
không là một cái gì không thể chấp nhận được mà nguyên tử luận của Democrite cần có
chân không.
Aristote chủ trương rằng thế giới vật chất do bốn nguyên tố tạo thành: Đất, nước,
không khí và lửa. Các nguyên tố đó có thể chuyển cái nọ thành cái kia. Bốn nguyên tố mang
bốn tính chất nguyên thủy là khô, ẩm, nóng, lạnh phân bố như sau:
 Đất thì khô và lạnh.
 Nước thì lạnh và ẩm.
 Không khí thì ẩm và nóng.
 Lửa thì nóng và khô.
Bốn tính chất nguyên thủy luôn luôn đấu tranh với nhau tạo ra sự chuyển hóa các nguyên tố
và mọi sự biến đổi trong tự nhiên. Ta thấy rằng, thuyết bốn nguyên tố của Aristote về cơ bản
rất giống thuyết Ngũ hành của Trung Quốc.
Uy tín to lớn của Aristote đã làm chậm sự phát triển về quan điểm nguyên tử trong nhiều thế
kỷ.
Mặc dù bị chống đối nhưng với nội dung tiến bộ của nó, thuyết nguyên tử sơ khai của
Democrite đã trở thành cơ sở của khoa học hiện đại và tiếp tục được một số nhà khoa học ở
giai đoạn sau phát triển thêm.
Ở thời kỳ Hy Lạp hóa cuối thế kỷ thứ IX trước công nguyên, nguyên tử luận
của Democrite sau một thời kỳ bị lãng quên đã được phát triển và bổ sung thêm bởi Epicure
và Lucrece.
Hai ông đã vạch ra mô hình chuyển động của các nguyên tử bằng cách so sánh với chuyển
động của hạt bụi trong một tia nắng rọi vào căn phòng tối. Các ông còn cho rằng các nguyên
tử có trọng lượng, có mật độ và có khả năng lệch khỏi chuyển động.
Thuyết nguyên tử của Democrite sau một thời gian dài bị lãng quên đã được nhắc trở lại
trong các tác phẩm của nhà triết học, nhà toán học, vật lý học và thiên văn học người Pháp
Paerre Gasendi (1592-1655). Thế rồi các giáo điều của Aristote đã ngự trị cho tới thời Phục
Hưng. Một trong các nhà trí thức đầu tiên đã phản đối những thành kiến dị đoan cũ là
Francis Bacon.
Bacon là luật gia kiêm chính trị gia dưới triều đại Nữ Hoàng Elizabeth và Vua
James I, đã tố cáo Aristote là đã pha thêm màu sắc và làm sai lệch triết học tự nhiên bằng
những thành kiến của mình. Qua tác phẩm Novum Organum, Bacon đã tán thành ý tưởng
của Democrite về tính chất của sự vật. Kế tiếp là ý tưởng của Bacon là Rober Boyle. Để cắt
nghĩa sự nén được và bành trướng được của các chất khí, Boyle đã cho rằng chất khí được
cấu tạo do các hạt (corpuscles) rất nhỏ nằm giữa các khoảng trống và các hạt này phải ở
trong trạng thái luôn luôn dao động. Sự khác biệt về 3 trạng thái vật lý hay 3 thể rắn, lỏng và
hơi là do các hạt đó ở trong tình trạng bị giam hãm hay tự do. Cùng với Boyle đã chấp nhận
giả thuyết nguyên tử vào năm 1679, còn có Isaac Newton.
Newton xem thành phần cấu tạo mọi vật chất là những hạt nhỏ, cứng chắc và là
một vật thể không hủy. Các hạt luôn có khối lượng và hình dạng không thay đổi. Do đó vật
chất luôn được bảo toàn. Newton gắn thêm một lực tác động giữa các hạt với nhau. Lực này
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CẤU TRÚC NGUYÊN TỬ
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Thếp Trang: 6
phụ thuộc vào khối lượng và khoảng cách giữa chúng. Đó là trọng lực hay lực hút lẫn nhau
của các khối lượng và gắn chặt với vật thể.
Như vậy vào cuối thế kỷ 17, lý thuyết của Democrite đã được làm sống lại hoàn toàn bởi ba
nhà khoa học người Anh: Bacon, Boyle và Newton.
II. THUYẾT NGUYÊN TỬ Ở THẾ KỶ XVIII
Nguyên tử phlogiston
Thuyết phlogiston thế kỷ 17 (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ Phlogios, có nghĩa là
"sự cháy") là một lý thuyết khoa học đã lỗi thời, được Johann Joachim Becher đưa ra lần đầu
tiên vào năm 1667, cho rằng ngoài những nguyên tố cổ điển của người Hi Lạp, có một
nguyên tố bổ sung tương tự như lửa có tên là "yếu tố cháy" (Phlogiston). Yếu tố này tồn tại
trong các vật thể có khả năng bốc cháy, và được giải phóng ra ngoài với một mức độ thay
đổi được trong sự cháy.
Học thuyết cho rằng tất cả những vật chất có thể cháy được đều chứa Phlogiston, một
dạng vật chất không có màu, mùi, vị, hay khối lượng, và được giải phóng trong sự cháy. Một
khi được đốt, những vật chất đã mất hết chất phlogiston sẽ thể hiện dạng nguyên thuỷ của
nó, gọi là Calx.
Vào năm 1774, Joseph Priestley, nhà thần học kiêm khoa học người Anh, đã
dùng một thấu kính 30 cm để hội tụ ánh sáng Mặt Trời vào một thứ đất đỏ (oxít thủy ngân)
và đã thấy rằng nhiệt lượng đã làm bay ra một thứ khí và để lại một kim loại lỏng: Thủy
ngân. Priestley đã hứng lấy thứ khí này để nghiên cứu đặc tính và thấy rằng bên trong khí
này, một cây nến cháy sáng hơn và mạnh hơn là trong không khí. Thực ra, thứ khí này là
“Oxygen” nhưng Priestley đã bỏ lỡ một cơ hội khám phá vô cùng quan trọng cũng vì ông tin
tưởng vào lý thuyết Phlogiston.
Antoine Lavoisier (1743-1794 ) thấy rằng vật chất không được tạo ra hay bị
hủy diệt mà đã phối hợp với nhau để tạo nên các chất mới. Điều này đã đưa Lavoisier đến sự
phân biệt giữa hợp chất và đơn chất, tức là chất không thể làm cho đơn giản hơn.
Pierre Marcellin Berthelot ( 1827 – 1907 ) chính trị gia và hóa học gia, bác
học người Pháp đã nghiên ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top