muathuvang.love

New Member

Download miễn phí Hình thái và cấu trúc của virus





Protein cấu trúc tham gia vào cấu tạo hạt virus, làm cho chúng có hình d ạng, kích thước
nhất định và bảo vệ genom của virus khỏi các điều kiện bất lợi. Protein cấu trúc bao gồm
protein của nucleocapsid, protein nền (matrix), protein vỏ ngoài (Hình 3). Protein
nucleocapsid có thể tự lắp ráp (ví dụ ởTMV, polio) hay lắp ráp với sự trợ giúp của một
khung protein tạm thời, làm nhiệm vụ dàn giáo để tạo đầu phage hay cấu trúc khối đa
diện, protein này chỉ tồn tại khi lắp ráp nucleocapsid và sẽ bị mất đi ở virus trưởng thành



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Hình thái và cấu trúc của virus – Phần 1
2.1. Cấu tạo cơ bản:
Tất cả các virus đều có cấu tạo gồm hai thành phần cơ bản: lõi là acid nucleic (tức
genom) và vỏ là protein gọi là capsid, bao bọc bên ngoài để bảo vệ acid nucleic. Phức
hợp bao gồm acid nucleic và vỏ capsid gọi là nucleocapsid hay xét về thành phần hoá học
thì gọi là nucleoprotein. Đối với virus ARN thì còn gọi là ribonucleoprotein
Genom của virus có thể là ADN hay ARN, chuỗi đơn hay chuỗi kép, trong khi genom
của tế bào luôn là ADN chuỗi kép, và trong tế bào luôn chứa hai loại acid nucleic, ADN
và ARN.
2.2. Vỏ capsid:
Capsid là vỏ protein được cấu tạo bởi các đơn vị hình thái gọi là capsome. Capsome lại
được cấu tạo từ 5 hay 6 đơn vị cấu trúc gọi là protome. Protome có thể là monome (chỉ
có một phân tử protein) hay polyme (có nhiều phân tử protein)
- Pentame (penton) có 5 protome nằm trên các đỉnh của khối đa diện, còn hexame
(hexon) tạo thành các cạnh và bề mặt hình tam giác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
- Capsid có khả năng chịu nhiệt, pH và các yếu tố ngoại cảnh nên có chức năng bảo vệ lõi
acid nucleic
- Trên mặt capsid chứa các thụ thể đặc hiệu, hay là các gai glicoprotein, giúp cho virus
bám vào các thụ thể trên bề mặt tế bào. Đây cũng chính là các kháng nguyên (KN) kích
thích cơ thể tạo đáp ứng miễn dịch (ĐƯMD).
- Vỏ capsid có kích thước và cách sắp xếp khác nhau khiến cho virus có hình dạng khác
nhau. Có thể chia ra ba loại cấu trúc: đối xứng xoắn, đối xứng hình khối và cấu trúc phức
tạp (Hình 1).
Hình 1. Kích thước và hình thái của một số virus điển hình .Theo Presscott L. M. et al. ,
Microbiology. 6th ed. Intern. Ed. 2005.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
2.2.1 Cấu trúc đối xứng xoắn:
Sở dĩ các virus có cấu trúc này là do capsome sắp xếp theo chiều
xoắn của acid nucleic. Tuỳ loại mà có chiều dài, đường kính và chu
kỳ lặp lại của các nucleocapsid khác nhau. Cấu trúc xoắn thường
làm cho virus có dạng hình que hay hình sợi ví dụ virus đốm thuốc
lá (MTV), dại (rhabdo), quai bị, sởi (paramyxo), cúm (orthomyxo).
ở virus cúm các nucleocapsid được bao bởi vỏ ngoài nên khi quan
sát dưới kính hiển virus điện tử thấy chúng có dạng cầu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
2.2.2 Cấu trúc đối xứng dạng khối đa diện 20 mặt
Hình của phòng thí nghiệm Robert M Bock Đại học University of Wisconsin-Madison.
Ở các virus loại này, capsome sắp xếp tạo vỏ capsid hình khối đa diện với 20 mặt tam
giác đều, có 30 cạnh và 12 đỉnh. Đỉnh là nơi gặp nhau của 5 cạnh thuộc loại này gồm các
virus adeno, reo, herpes và picorna. Gọi là đối xứng vì khi so sánh sự sắp xếp của
capsome theo trục. Ví dụ đối xứng bậc 2, bậc 3, bậc 5, vì khi ta xoay với 1 góc 1800 (bậc
2), 1200 (bậc 3) và 720 (bậc 5) thì thấy vẫn như cũ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
Các virus khác nhau có số lượng capsome khác nhau. Virus càng lớn, số lượng capsome
càng nhiều. Dựa vào số lượng capsome trên mỗi cạnh có thể tính được tổng số capsome
của vỏ capsid theo công thức sau:
N= 10(n-1)2+2
Trong đó N- tổng số capsome của vỏ capsid, n-số capsome trên mỗi cạnh.
Hình 2.
A Sơ đồ virus hình que với cấu trúc đối xứng xoắn (virus khảm thuốc lá). Capsome sắp
xếp theo chiều xoắn của acid nucleic.
B- Sơ đồ virus đa diện đơn giản nhất. Mỗi mặt là một tam giác đều. Đỉnh do 5 cạnh hợp
lại. Mỗi cạnh chứa 3 capsome.
C- Sự đối xứng của hình đa diện thể hiện khi quay theo trục bậc 2 (1800), bậc 3 (1200) và
bậc 5 (720). Theo J. Nicklin et al., Instant Notes in Microbiology, Bios Scientific
Publisher, 1999.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
2.2.3 Virus có cấu tạo phức tạp
Một số virus có cấu tạo phức tạp, điển hình là phage và virus đậu mùa. Phage có cấu tạo
gồm đầu hình khối đa diện, gắn với đuôi có cấu tạo đối xứng xoắn. Phage T chẵn (T2,
T4, T6) có đuôi dài trông giống như tinh trùng, còn phage T lẻ (T3,T7) có đuôi ngắn,
thậm chí có loại không có đuôi (?6, ?X174).
Virus đậu mùa có kích thước rất lớn, hình viên gạch. ở giữa là lõi lõm hai phía trông như
quả tạ. Đối diện với hai mặt lõm là hai cấu trúc dạng thấu kính gọi là thể bên. Bao bọc lõi
và hai thể bên là vỏ ngoài.
2.3 Vỏ ngoài:
Một số virus có vỏ ngoài (envelope) bao bọc vỏ capsid. Vỏ ngoài có nguồn gốc từ màng
sinh chất của tế bào được virus cuốn theo khi nảy chồi. Vỏ ngoài có cấu tạo gồm 2 lớp
lipid và protein.
Lipid gồm phospholipid và glycolipid, hầu hết bắt nguồn từ màng sinh chất (trừ virus pox
từ màng Golgi) với chức năng chính là ổn định cấu trúc của virus.
Protein vỏ ngoài thường là glycoprotein cũng có nguồn gốc từ màng sinh chất, tuy nhiên
trên mặt vỏ ngoài cũng có các glycoprotein do virus mã hóa được gắn trước vào các vị trí
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
chuyên biệt trên màng sinh chất của tế bào, rồi về sau trở thành cấu trúc bề mặt của virus.
Ví dụ các gai gp 120 của HIV hay hemaglutinin của virus cúm, chúng tương tác với
receptor của tế bào để mở đầu sự xâm nhập của virus vào tế bào.
Vỏ ngoài cũng có nguồn gốc từ màng nhân do virus lắp ráp và nẩy chồi qua màng nhân
(virus herpes)
Dưới tác động của một số yếu tố như dung môi hoà tan lipid, enzym, vỏ ngoài có thể bị
biến tính và khi đó virus không còn khả năng gây nhiễm nữa.
2.4 Protein của virus :
2.3.1 Các phương pháp nghiên cứu protein virus
Trước hết cần tách chúng khỏi tế bào. Điều này có thể thực hiện được nhờ hàng loạt
các bước ly tâm tách, tiếp đó là ly tâm theo gradient nồng độ saccaroza.
Ly tâm gradient nồng độ saccaroza thường cho kết quả thể hiện ở các băng (band) rất rõ
nét tại các vị trí đặc thù trên gradient. Các băng này được dùng cho các nghiên cứu tiếp
theo. Thông thường để nghiên cứu các virion đánh dấu đồng vị phóng xạ, người ta dùng
hàng loạt kỹ thuật như điện di trên gel polyacrylamit, western Blotting (phản ứng với
kháng thể).
Vị trí protein của virus trong tế bào có thể xác định được nhờ kỹ thuật nhuộm phân biệt
và miễn dịch huỳnh quang, cho kháng thể đơn dòng tương tác với epitop đặc hiệu của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
protein sau dịch mã thì dùng các chất ức chế proteaza và ức chế quá trình glycosyl hoá.
Việc xác định trình tự gen và việc đoán acid amin sẽ giúp hiểu được cấu trúc và chức
năng của chúng.
2.4.2 Các loại protein virus
Protein virus được tổng hợp nhờ mARN của virus trên riboxom của tế bào. Tuỳ theo thời
điểm tổng hợp mà được chia thành protein sớm và protein muộn. Protein sớm do gen sớm
mã hoá, thường là enzym (protein không cấu trúc) còn protein muộn do gen muộn mã
hoá, thường là protein cấu trúc tạo, nên vỏ capsid và vỏ ngoài.
Protein không cấu trúc
Protein không cấu trúc có thể được gói vào trong virion, nhưng không phải là thành phần
cấu tạo virion. Đây là các enzym tham gia vào quá trình nhân lên của virus, ví dụ enzym
phiên mã ngược, proteaza và integraza của virus retro, timidinkinaza và ADN
polymeraza của HSV.
Protein không cấu trúc khác chỉ có mặt trong tế bào nhiễm mà không được đưa vào
virion, bao gồm các protein tham gia vào quá trình điều hoà sao chép, phiên mã, dịch m
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top