hooker

New Member

Download miễn phí Tài liệu Loài lưỡng cư





Hô hấp bằng da nhờ có nhiều mao mạch, da tiết chất nhầy nên luôn ẩm
ướt. Da và cơ chỉ dính với nhau một số chỗ nên tạo nhiều khoảng trống,
đó là các túi bạch huyết có vai trò hô hấp rất quan trọng của Lưỡng cư.
Khả năng hô hấp bằng da của lưỡng cư hoàn toàn phụ thuộc vào bề mặt
da và số lượng mạch máu nằm trong đó. Do đó nhiều loài lưỡng cư vào
mùa sinh sản do yêu cầu dinh dưỡng cao, nênđã phát triển ở trên lưng
một cái mào da như ở kỳ giông có mào hay phát triển ở hai bên sườn và
đùi những nếp da mỏng chứa nhiều mạch máu nhỏ góp phần làm tăng
diện tích hô hấp qua da



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

bắt mồi bằng
hàm, ngoạm các loại thức ăn tiếp xúc với miệng còn chân trước có vai trò
giữ mồi cho chặt. Phần lớn các loài sống trên cạn bắt mồi bằng lưỡi, bắt
những con mồi cử động và loại bỏ các vật không ăn được. Lưỡi phóng ra
ngoài nhanh như tia chớp, dính con mồi vào đầu lưỡi, rồi nhanh chóng
thu vào miệng. Khả năng nhịn đói của lưỡng cư cũng khá cao: nòng nọc
đến cả tháng, cóc nhà đến 1 năm, cá cóc có đuôi mù đến 8 năm.
Sự vận chuyển ở lưỡng cư (Amphibia)
Sự vận chuyển của lưỡng cư phù hợp mật thiết với môi trường sống của
nó. Các loài lưỡng cư có đuôi sống với nước chuyển vận bằng cách bơi,
các loài này có đuôi phát triển, chi yếu. Chúng di chuyển bằng cách quẩy
đuôi như cá, chi ép vào hai bên thân (cá cóc Tam Ðảo) hay bằng cách
uốn toàn thân (cá cóc mù).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
- Các loài lưỡng cư không đuôi (cóc, ếch ...) bơi bằng hai chân sau cử
động đồng thời như bơi chèo. Những loài nầy đều có chân sau dài, có
màng da nối các ngón chân sau làm tăng sức đẩy. Một số loài còn có
màng chân trước.
- Các loài lưỡng cư không đuôi sống trên cạn chuyển vận bằng cách nhảy,
do sự duỗi thẳng đột ngột của chi sau. Chi trước làm vai trò đệm khi con
vật rơi xuống đất. Các loài nhảy càng giỏi càng có thân thon dài, đầu
nhọn, chi sau dài và mảnh, trọng lượng cơ thể trung bình hay nhỏ (chàng
hiu, nhái ...). Nhái bầu vân (Microhyla) nhảy xa 1,2m và cao 0,5m (mỗi
bước nhảy có thể gấp 80 lần chiều dài cơ thể), nhái (Rana limnocharis)
nhảy xa 0,6m và cao 0,2m, cóc (Bufo melanostictus) nhảy kém nhất xa
0,3m - 0,4 m và cao 0,15m.
Một số loài chẫu như chẫu xanh rừng Cúc Phương nhảy khá giỏi. Trong
mùa sinh sản con cái mang con đực trên lưng chúng có thể nhảy từ cành
lá cây này sang cây khác cách xa nhau 10 - 12m. Một số loài ếch nhái và
chàng hiu (Rana rugulosa, Rana limnocharis...) có thể nhảy thia lia trên
mặt nước một thời gian trước khi nhào xuống nước.
- Chạy hay đi là cử động không phổ biến ở lưỡng cư. Một số ít loài lưỡng
cư có đuôi có thân ngắn chạy nhanh như thằn lằn và khi chạy cũng uốn
thân.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
- Một số loài lưỡng cư không đuôi như cóc đôi khi cũng bò. Chúng bò
bằng cử động xen kẻ của chi trước và chi sau nhưng bò rất chậm.
- Các loài lưỡng cư không đuôi sống trên cây (nhái bén, hót cổ...) chuyển
vận phổ biến nhờ trèo. Ngón chân và ngón tay của các loài này dài, đầu
mút mở rộng thành giác bám. Nhờ những giác bám này chúng có thể dính
chặt vào cành lá hay bò ngước trên thân cây. Ðặc biệt nhái lá Nam Mỹ
(Phyllomedusa) còn có ngón chân cái đối diện với các ngón khác. Một
số loài có tuyến tiết chất dính, dù ngón chân không nở rộng thành
giác bám vẫn bám được vào lá cây hay vỏ cây để giúp leo trèo.
Điều kiện sống Lưỡng cư (Amphibia)
Lưỡng cư phân bố ở nước ngọt, không khí nóng và ẩm. Do đời sống lệ
thuộc chặt chẽ vào độ ẩm và nhiệt độ mà lưỡng cư vắng mặt ở vùng sa
mạc khô cằn và vùng địa cực trong khi chúng rất phong phú và đa dạng ở
những vùng nhiệt đới nóng và ẩm.
- Da của lưỡng cư là cơ quan hô hấp vô cùng quan trọng. Da trần, ẩm
thuận lợi cho sự khuếch tán khí và độ ẩm của da giảm cùng độ ẩm của
môi trường ngoài. Không khí càng khô sự hô hấp càng không thuận lợi và
thân nhiệt càng giảm dẫn đến bị chết. Mức độ hô hấp qua da cũng thay
đổi tùy loài và tùy nơi ở. Các loài sống ở nơi khô ráo, thường có da hóa
sừng để giảm bớt sự thoát hơi nước ở bề mặt thân, hơn nữa chúng hoạt
động vào buổi chiều và ăn đêm nên tránh được thời tiết khô ráo ban ngày.
- Thân nhiệt của lưỡng cư không những tùy thuộc nhiệt độ của môi
trường như ở cá và bò sát mà thường thấp hơn từ 2 - 30C. Thí dụ một loài
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
nhái bén ở California khi trời lạnh nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt độ không
khí nhưng khi trời nóng nhiệt độ cơ thể thấp hơn.
- Cấu tạo đặc biệt của da lưỡng cư làm chúng không thể sống trong nước
có hàm lượng muối 1 - 1,5% vì ở nồng độ này cân bằng thẩm thấu qua da
bị phá hủy.
Do đó lưỡng cư không thấy ở vùng nước lợ cũng như ở các đảo đại
dương. Tuy nhiên một số loài vẫn có khả năng sống ở nước lợ. Ở
Philippin có loài ếch Rana moodei sống trong hang cua nước lợ và ấu
trùng chịu đựng hàm lượng muối 2,1%.
Ở các vùng ven biển nước ta, các loài cóc, nhái vẫn sống kiếm ăn bên
các vũng nước lợ. Ðộ pH cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trứng
lưỡng cư khi pH giảm thì trứng lưỡng cư có thể không phát triển
(một số loài trứng chịu đựng đến pH= 3,8).
Về mặt sinh thái học ta phân biệt ba nhóm: Nhóm ở cây, nhóm ở đất và
nhóm ở nước. Nhóm ở cây và ở đất gồm chủ yếu các loài thuộc bộ Không
đuôi.
- Nhóm ở cây phổ biến nhất, đa số thuộc hai họ Nhái bám
(Rhacophoridae) và Nhái bén (Hylidae). Các loài ở cây có cấu tạo đặc
biệt thích hợp cho sự leo trèo. Nhái bén (Hyla) có ngón chân nở rộng
thành giác bám, có thêm rèm biểu bì và tuyến tiết chất dính giúp con
vật bám được vào mặt phẳng thẳng đứng. Nhiều loài nhái bám như hót
cổ (Rhacophorus) có đầu ngón chân nở rộng thành giác bám, có đốt sụn
trung gian giữa hai đốt ngón chân làm chúng dễ dàng nắm cành cây để
leo trèo. Hơn nữa một số loài có màng da nối ngón chân làm chúng có thể
nhảy chuyền từ cành này sang cành khác, có khi xa đến 10m (chẫu
xanh ở rừng Cúc Phương). Màng này giúp hạn chế tốc độ rơi của con
vật.
- Nhóm ở đất gồm nhiều loài ở bộ Không đuôi, một số ít loài bộ
có đuôi và không chân. Các loài không đuôi sống ở đất thường tìm
kiếm những hang hốc, khe đất trong tự nhiên để làm nơi ở. Một số loài
nầy có thể đào đất bằng chân sau, các loài này đều có chi ngắn và khỏe,
thiếu khả năng nhảy xa. Cóc đào đất bằng cách dùng chân sau đạp lần
lượt và dũi phần sau thân vào đất. Cử động lần lượt của các chân dẫn đến
hình thành khớp động giữa xuơng chậu và đốt sống chậu nhờ mấu bên rất
lớn. Ngoài ra da đầu của cóc cũng hóa xương một phần để bảo vệ đầu con
vật khỏi bị thương do đất cát rơi xuống. Một số loài của bộ không chân
chuyên đào đất như ếch giun (Ichthyophis) thường xuyên sống trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
đất, có cơ thể hình rắn, thiếu chi, một số giác quan như tai, mắt bị tiêu
giảm nhưng có đầu cứng như một công cụ để đào hang.
- Nhóm ở nước gồm chủ yếu các loài thuộc bộ có đuôi và một số nhỏ loài
thuộc bộ không đuôi. Các loài có đuôi sống dưới nước có thân dài, chi
nhỏ, đuôi dài với vây đuôi phát triển. Cá cóc lớn (Megalobatrachus)
sống thường xuyên ở sông có vây đuôi rất lớn. Loài sống ở suối, thích
nghi với nước chảy nhanh, có chi phát triển và có vuốt giúp con vật bám
vào giá thể, do môi trường nhiều oxy nên phổi bị tiêu biến, hoàn toàn
thở bằng da như cá cóc vuốt (Onychodactylus). Loài sống ở sông
hay hồ ngầm thiếu ánh sáng thường thiếu sắc tố và mắt nhỏ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top