nghoang74

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu vấn đề nhận thức luận trong Kinh Lăng Già





MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
1. Giới thiệu một vài nét về kinh Lăng Già 3
1.1. Nguồn gốc, niên đại, bản dịch 3
1.2. Vị trí kinh điển 3
2. Nội dung của kinh Lăng Già 4
KẾT LUẬN 12
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------
TIỂU LUẬN
ề tài:
Tìm hiểu vấn đề nhận thức luận
trong “kinh LĂNG GIà”
Giảng viên : Hoàng Thị Thơ
Học viên : Nguyễn Thị Liên
Lớp : Cao học K13
Hà Nội -2006
LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam, sau đó tiếp thu một số ảnh hưởng phật giáo Trung Quốc. Trước thế kỷ V, VI là giai đoạn Việt – Ấn, thời kỳ này các tu sĩ Ấn Độ theo thuyền buôn đến đây truyền giáo. Sau khi Phật giáo Trung Quốc hình thành các tông thì tác động đến Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo truyền vào Việt Nam đã trở thành một trong những hệ tư tưởng- tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày nay và đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của người Việt. Với quan niệm và tư tưởng độc đáo của mình phật giáo đã trở nên gần gũi và không thể thiếu trong nền văn hoá Việt Nam. Ngày nay, trong bối cảnh đổi mới đất nước, do bối cảnh của nền kinh tế thị trường, cùng với những học thuyết và tư tưởng tôn giáo khác, Phật giáo đã có những thay đổi lớn. Điều đó tác động không nhỏ cả về mặt tích cực lẫn những mặt tiêu cực tới đời sống đạo đức của người Việt.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, cả Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc là hai nguồn gốc chính của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Ấn Độ phân thành Tiểu Thừa và Đại Thừa. Bản thân Đại Thừa ngay tại ấn Độ cũng đã thành nhiều bộ phái. Sau khi người Trung Quốc tiếp thu nhuần nhuyễn được phật giáo thì chia thành nhiều tông phái mang màu sắc Trung Quốc. Để tìm hiểu được nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam cũng như thấy được đặc điểm Phật giáo Việt Nam. Trước hết ta cần tìm hiểu những nội dung trực tiếp trong các kinh của Phật giáo.
Trong tiểu luận này, bước đầu em tìm hiểu một số tư tưởng trong kinh Lăng Già cụ thể là vấn đề nhận thức luận.
Lăng Già kinh có vai trò ý nghĩa như là tuyên ngôn độc lập của Phật giáo Trung Hoa. Từ đây Phật giáo Trung Hoa không phải phụ thuộc vào Phật giáo Ấn Độ cũng như không phải dựa vào Lão- Trang để tồn tại trong xã hội.
NỘI DUNG
1. Giới thiệu một vài nét về kinh Lăng Già
1.1. Nguồn gốc, niên đại, bản dịch
Lanka tên gốc của srilanka hiện nay. Nơi đây đức Phật từng giảng giáo lý Đại thừa cho Bồ Tát Mahamati, do vậy kinh đại thừa này được gọi là Lankavatara-sutra.
Song thực tế Lăng Già không phải do đức Phật trực tiếp thuyết giảng mà nó được biên soạn muộn hơn về sau, khi tư tưởng Đại Thừa bắt đầu hình thành ở Bắc và Nam Ấn Độ.
Có nhiều ý kiến khác nhau về niên đại chính xác của Lăng Già, song chắc chắn là trước năm 443SCN( đời Tống). Đây là mốc thời gian cụ thể khi bản dịch sang tiếng Hán ngữ được hoàn tất. Song các bản dịch muộn hơn có thêm một số chương mà bản dịch 443 không có và cả những sự thay đổi trong nội dung một số chương.
Văn bản học có nhận định rằng ban đầu Lăng Già không được viết thành văn bản hoàn chỉnh như hiện nay. Có phần đã được viết từ trước, có phần, có đoạn viết thêm. “ Lăng Già là một bản giác thư mà bậc thầy Đại Thừa cất giữ. Trong đó có lẽ ông ghi lại hết tất cả giáo lý quan trọng mà những người theo Đại Thừa của thời ông chấp nhận”(Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn (dịch), Lăng Già Đại Thừa Kinh, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998,tr. 15).
Có thể nói niên đại của Lăng Già muộn hơn cả các bộ Nikaya và Ahàm- là các bộ kinh biên soạn sau thời đức Phật.
1.2. Vị trí kinh điển
Tương truyền rằng thời vua Lương Võ Đế, Bồ Đề Đạt Ma- tổ khai sáng thiền tông- từ Tây Trúc đã sang trao kinh Lăng Già cho đệ tử Trung Hoa đầu tiên là Huệ Khả và nói: Xứ này có bốn quyển Lăng Già có thể dùng tâm ấn trọn trao cho ngươi. Theo truyền thống Đại Thừa Trung Hoa thì Lăng Già là bản pháp chính truyền nhất, được coi như sự kí thác của đạo phật.
Lankavatara-sutra có bốn bản dịch nay còn lại ba bản.
1 “Lăng Già A bạt đa la bảo kinh” do Cầu na bạt đa la đời Tống(424- 454) dịch, gồm 4 quyển lên gọi là Tứ quyển Lăng Già
2. “Nhập Lăng Già kinh” do Bồ đề Lưu Chi đời Nguyên dịch, gồm 10 quyển nên gọi là Thập quyển Lăng Già.
3 Đại thừa nhập Lăng Già kinh doThực xoa nan đà đời Đường, thời Võ Tắc Thiên(684-705) gồm 7 quyển nên gọi là Thất quyển Lăng Già kinh.
Đây được coi là bộ kinh quý giá đối với lịch sử Thiền phật giáo thời kì đầu ở Trung Quốc. Thậm chí có người cho rằng Cầu na bạt đà la, dịch giả đầu tiên của bản Hán văn mới là sở tổ của Thiền Trung Quốc chứ không phải Bồ Đề Đạt Ma.
3. Kết cấu của kinh
Toàn bộ kinh này được trình bày, gồm 9 chương ở dạng văn xuôi và một chương ở dạng phú. Lăng Già có kết cấu và cách trình bày hoàn toàn độc lập, không theo quy phạm chung của các kinh Phật.
Mỗi chương hoàn toàn độc lập, mối liên hệ giữa các chương không rõ ràng. Có học giả phỏng đoán rằng có thể có một Lăng Già lớn hơn nhiều; thậm chí có nhiều phần không phải thực sự của Lăng Già cũng đã được đưa thêm vào. Suzuki có nhận định rằng: “ Lăng Già là một bản kinh hết sức hỗn độn và có một số đoạn đã hị cưỡng ép vào những chỗ không phải của chúng”.
2. Nội dung của kinh Lăng Già
Nội dung triết lý căn bản của Lăng Già chủ yếu tiếp tục phát triển cấn đề của Đại Thừa, cụ thể hơn là những vấn đề của trường phái duy thức tông( Du già) - phái này cho rằng mọi vật trên thế giới đều là biến tướng, là sự thể hiện của thức thứ tám tức là Alaida thức hay tạng thức. Tám thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và alaida thức. Alaida thức tàng chứa mọi hạt giống( chủng tử) của nghiệp và tuỳ theo căn cơ của nghiệp lặc mà nó hiện ra, tức thành quả báo. Phái Du già đặc biệt nhấn mạnh thức thứ tám này không bao giờ mất đi mà nó tồn tại vĩnh hằng.
Chủ đề chính của Lăng Già là bàn về vấn đề giác ngộ từ góc độ nhận thức luận của thiền học. Mục đích chính là cảnh tỉnh cố tật nhị nguyên của ý thức nói chung và khẳng định thiền định, hành thiền là phương pháp quan trọng nhất để chứng tâm “ thánh trí tự giác”. Qua hành thiền sẽ đạt được kinh nghiệm tự chứng và biết được rằng ngôn từ hình tượng chỉ là tạm mượn. ( điều gì thuyết giảng thì vượt ra khỏi sự thuyết giảng, vì chân lý thì vượt khỏi ngôn từ”(Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn (dịch), Lăng Già Đại Thừa Kinh, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998,tr. 153).
* Nhận thức luận
Lăng Già tiếp thu tư tưởng của Yoga về lý luận nhận thức, cụ thể là bát thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và alaida thức.Trong đó khi một đối tượng được bầy ra trước mắt nó được nhận thức và được phán quyết là trái táo đỏ hay một miếng vải trắng, cái khả năng làm như thế được gọi là nhãn thức. Cũng thế nhĩ thức nhằm cho âm thanh, tỷ thức cho mùi vị, thiệt thức cho vị nếm, thân thức cho sự xúc chạm và ý thức cho các ý tưởng tổng hợp sáu thức này nhằm phân biệt những kía cạnh kh
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top