loveyoulovemetn

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Đặt vấn đề

Trong cuộc sống xã hộị hàng ngày việc hình thành các hợp đồng dân sự diễn ra thường xuyên. Đó là “sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt nghĩa vụ dân sự”. Nói cách khác hợp đồng dân sự chính là một hình thức của giao dịch dân sự. Qua các hợp đồng dân sự các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không chỉ thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà còn có thể thỏa thuận để thay đổi, chấm dứt các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên không phải bao giờ hợp đồng dân sự được lập nên cũng có hiệu lực. Việc các hợp đồng dân sự vô hiệu có rất nhiều nguyên nhân. Việc hiểu rõ về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của nó có ý nghĩa rất thiết thực trong việc học môn pháp luật dân sự và áp dụng vào cuộc sống thường ngày. Chính vì lí do đó em đã chọn đề “ hợp đồng dân sự vô hiệu ” làm đề tài cho bài tập dân sự học kì của mình. Đây là một đề tài khá rộng nên bài làm không thể tránh khỏi thiếu sót, em mong được ý kiến đóng góp giúp đỡ của quý thầy, cô. Em xin cảm ơn!

Nội dung

A . HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
Điều 410 BLDS năm 2005 viện dẫn việc áp dụng các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 vì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, do đó, cần áp dụng những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu đối với hợp đồng vô hiệu.
Điều 410. Hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
Theo quy định tại Điều 127 BLDS, giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS thì vô hiệu.
Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu
Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
a. Người tham gia hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự
Thuật ngữ "người" ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
- Cá nhân :
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên, hợp đồng dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ Điều 17 đến Điều 23 BLDS ).
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hay người giám hộ đồng ý…).
+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người thay mặt theo pháp luật xác lập, thực hiện.
- Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác :
Các chủ thể này tham gia vào hợp đồng dân sự thông qua người thay mặt của họ ( thay mặt theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người thay mặt xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người thay mặt xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên, pháp nhân chỉ tham gia các hợp đồng dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật (Điều 106 BLDS). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS). Người thay mặt xác lập hợp đồng dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hay pháp luật quy định.
b. Mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (mục đích thực tế). Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả thuận trong giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự luôn nhằm đạt được mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận về nội dung và ngược lại những cam kết, thoả thuận về nội dung của họ là để đạt được mục đích của hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này họ phải thoả thuận được về nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, cách thực hiện hợp đồng. Sự thoả thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản. Đây là mục đích của giao dịch mà các bên hướng tới. Tuy nhiên trong thực tiễn không phải bao giờ các chủ thể cũng có cùng mục đích. Có những trường hợp người mua muốn được sở hữu tài sản nhưng người bán không có mục đích đó mà vì một mục đích khác, đó là họ bán tài sản để trốn tránh việc kê biên tài sản, người bị kê biên tài sản bán hết tài sản của mình, trường hợp này người bán không phải muốn chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Mục đích này là trái pháp luật.
Để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao dịch dân sự. Những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hay trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó.
c. Người tham gia hợp đồng dân sự hoàn toàn tự nguyện
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này không có hay không thống nhất cũng không thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được quy định tại Điều 4 BLDS: Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Vì vậy, hợp đồng dân sự thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lí. Bộ luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn, do bị lừa dối, bị đe doạ, do xác lập tại thời điểm mà không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Về lý thuyết, có thể phân chia thành hai loại vô hiệu của giao dịch: đó là giao dịch đương nhiên vô hiệu (hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tuyệt đối) và giao dịch dân sự vô hiệu theo đề nghị của người có quyền, lợi ích liên quan ( hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tương đối). Nếu không có đề nghị hay có đề nghị nhưng không được Toà án chấp nhận thì giao dịch vẫn có hiệu lực pháp luật. Bộ luật dân sự quy định 7 trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a) Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội (Điều 128 BLDS); b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hay nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 129 BLDS); c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 134 BLDS);
Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp: a) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 130 BLDS); b) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BLDS); c) Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS); d) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS).
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
Điều 128 BLDS quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu dạng này. Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội bao gồm nội dung, mục đích của hợp đồng trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng dân sự vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức thu được có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước (ví dụ: Trong trường hợp mua bán thuốc phiện, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm...). Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì họ phải chịu phần thiệt hại tương
B . HẬU QUẢ PHÁP LÍ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết theo Điều 137 BLDS năm 2005
Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Theo đó hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Trong trường hợp này, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. BLDS năm 2005 không quy định phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như quy định của BLDS năm 1995, mà quy định đó là một trong các nội dung của hợp đồng, nếu các bên có thoả thuận và tùy từng loại hợp đồng (khoản 7 Điều 402). Tuy nhiên thực tế việc áp dụng những biện pháp khắc phục xảy ra trong trường hợp hợp đồng dân sự ở nước ta dường như vẫn còn một số điều khúc mắc. Về hậu quả các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, trước tiên hoàn trả bằng hiện vật, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì tính thành tiền để trả.Về hậu quả pháp lý này, quy định trong bộ luật dân sự 2005 giữ nguyên quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995. Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của các chủ thể. Điển hình đối với những giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Ví dụ: A chuyển nhượng cho B một diện tích đất ở, khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu, B phải trả đất cho A, A phải trả tiền cho B. Thực tế cho thấy rằng, nguyên đơn hầu hết là bên chuyển nhượng. Đối với bên chuyển nhượng, vệc lấy lại đất là thoả đáng. Nhưng với bên được chuyển nhượng, việc phải trả lại đất cho bên bán là một tổn thất rất lớn với họ. Cho dù được nhận lại số tiền đã bỏ ra trước đây, họ không bao giờ mua được diện tích đất như vậy nữa vì những năm qua giá trị quyền sử dụng đất ở nước ta tăng nhanh chóng mặt. Hơn nữa, tỉ lệ lạm phát lại cao. Trong trường hợp bên chuyển nhượng có lỗi trong việc xác lập giao dịch này, bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, khoản bồi thường cũng không bao giờ bù đắp được mất mát thực tế của họ do giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu. Việc xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu càng trở nên phức tạp hơn trong trường hợp bên nhận tài sản đã cải tạo, sửa chữa tài sản đó hay nói cách khác làm tăng giá trị của tài sản. Nếu bên chuyển giao tài sản phản đối hay cơ quan có thẩm quyền không cho phép nhưng bên nhận tài sản vẫn làm tăng giá trị tài sản, bên nhận tài sản phải chịu phần tăng giá trị này khi hoàn trả tài sản. Tuy nhiên, nếu bên nhận tài sản không có lỗi thì giải quyết thế nào nếu bên đã giao tài sản không chịu nhận tài sản mới hay có nhận nhưng không thanh toán phần giá trị tăng thêm? Không có quy định về vấn đề này. Ví dụ: Sau khi được A chuyển nhượng đất, B đã bỏ 3 tỷ đồng để xây dựng một biệt thự trên đất đó. Sau 20 năm, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa A và B bị Toà án có thẩm quyền tuyên bố vô hiệu. Chắc chắn rằng, việc phải trả lại đất cho A là một tổn thất tài sản rất lớn với B, gây xáo trộn cuộc sống của B. Nhưng điều đáng đáng bàn hơn cả là giải quyết như thế nào khi A không muốn nhận khu biệt thự trên đất đó mà chỉ muốn nhận lại đất? Trong thực tế, một số Toà án địa phương đã yêu cầu mỗi bên chịu một nửa giá trị tài sản phát sinh trên đất. Quy định tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả hiện vật thực sự cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là tính giá hiện vật thành tiền tại thời điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch hay thời điểm hoàn trả tài sản? Đối với những tài sản không thay đổi về giá từ thời điểm xác lập giao dịch đến thời điểm hoàn trả tài sản, vấn đề tính giá tài sản vào thời điểm nào không quan trọng. Tuy nhiên, với những tài sản có sự biến đổi về giá (có thể tăng hay giảm giá), việc xác định giá tài sản để tính thành tiền là mấu chốt vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. Thông thường, nếu giá tài sản tăng thì thiệt hại thuộc về bên mua, còn nếu giá tài sản giảm thì thiệt hại thuộc về bên bán. Tất nhiên đây chỉ là những tồn tại rất nhỏ trong hệ thống pháp luật, và thực tế việc áp dụng pháp luật không phải bao giờ cũng diễn ra dễ dàng, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự
Kết luận
Trên đây là trình bày của em về vấn đề hợp đồng dân sự vô hiệu. Qua đó cá nhân em rút ra được rằng pháp luật dân sự VIệt Nam có quy định rất hoàn chỉnh và đẩy đủ về vấn đề này. Đủ thấy vấn đề xác định hiệu lực của hợp đồng dân sự là rất quan trọng ứng dụng rộng rãi trong giao dịch dân sự như thế nào. Vấn đề này không chỉ quan trọng với những người học luật mà còn quan trọng với bất cứ cá nhân nào khi tham gia quan hệ dân sự.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Vật quyền, Nghĩa vụ và Hợp đồng trong Luật Dân Sư La Mã Luận văn Luật 0
I Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng dân tộc thiểu số tại Hà Giang (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Văn hóa, Xã hội 0
D Ôn tập Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng Luận văn Luật 0
V Sử dụng công cụ phát triển cộng đồng giúp người dân giữ gìn bản sắc dân tộc (trường hợp người Thái ở Văn hóa, Xã hội 0
G Nâng cao chất lượng báo in phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số (Khảo sát trường hợp người Thái ở Tương Văn học 0
B Pháp luật về hợp đồng dân sự theo mẫu trên thế giới - những kinh nghiệm đối với Việt Nam : Luận văn Luận văn Luật 0
C Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng thi công xây dựng công trình: Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 03 Luận văn Luật 0
H Hợp đồng thuê khai thác tàu bay dân dụng tại Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 50 Luận văn Luật 0
M Giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thủ tục tố tụng dân sự : Luận vă Luận văn Luật 0
F Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 : Luận văn ThS. Luật: 6 Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top