Kolton

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

I. VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI
1. Ý nghĩa
Ðứng về mặt ngôn ngữ học thì việc phân loại và miêu tả các phong cách chức năng ngôn ngữ tiếng Việt là yêu cầu lí thuyết đặt ra cho bất kì ngôn ngữ nào đã và đang ở thời kì phát triển. Trong giao tiếp, phong cách chức năng ngôn ngữ luôn giữ vai trò môi giới. Tất cả những nét phong phú và sâu sắc, thâm thuý và tinh tế, tất cả những khả năng biến hoá của tiếng Việt đều thể hiện trong phong cách và qua phong cách. Tất cả những vấn đề quan trọng như Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Chuẩn hoá ngôn ngữ, phát triển và nâng cao tiếng Việt văn hoá... đều phải được giải quyết trong sự gắn bó mật thiết với phong cách. Mọi sự non kém, thiếu sót về ngôn ngữ đều sẽ bộc lộ khi sử dụng các phong cách chức năng ngôn ngữ.
Ðối với nhà trường, sự phân loại và miêu tả các PC sẽ tạo ra những cơ sở khoa học về tiếng Việt để biên soạn những tài liệu học tập, giảng dạy hoàn chỉnh về tiếng Việt. Sự phân loại và miêu tả các phong cách có ý nghĩa về nhiều mặt: ý nghĩa xã hội, ý nghĩa lí luận và ý nghĩa sư phạm.
2. Các cách phân loại PCNN
Việc phân loại các phong cách chức năng là một vấn đề đã được đặt ra từ thời Mĩ từ pháp cổ đại với lược đồ bánh xe phong cách của Virgile. Riêng ở Việt Nam vấn đề này chỉ mới thực sự quan tâm từ khi có các giáo trình về phong cách học. Cụ thể là trong quyển Giáo trình Việt ngữ tập III của Ðinh Trọng Lạc xuất bản năm 1964. Từ đó đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại các PCCNTV. Và, thực tế vấn đề này vẫn chưa có tiếng nói chung cả về số lượng các phong cách và cả về thuật ngữ.. Có thể khảo sát hai quan điểm về cách phân loại qua hai bộ giáo trình Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của giáo sư Cù Ðình Tú và Phong cách học tiếng Việt của giáo sư Ðinh Trọng Lạc (chủ biên ) và Nguyễn Thái Hoà.
1- GS Cù Ðình Tú phân loại dựa trên sự đối lập giữa PC khẩu ngữ tự nhiên và PC ngôn ngữ gọt giũa. Sau đó, trên cơ sở chức năng giao tiếp của xã hội mà chia tiếp PC ngôn ngữ gọt giũa thành : PC khoa học, PC chính luận, PC hành chính. PC ngôn ngữ văn chương được khảo sát riêng không nằm trong phong cách ngôn ngữ gọt giũa. Sơ đồ phong cách tiếng Việt được biểu hiện như sau :
Tiếng Việt toàn dân
Phong cách khẩu ngữ tự nhiên Phong cách ngôn ngữ gọt giũa
Phong cách khoa học Phong cách chính luận Phong cách hành chính Phong cách ngôn ngữ văn chương

2- GS Ðinh Trọng Lạc phân loại phong cách chức năng tiếng Việt ra làm 5 loại : PC Hành chính- công vụ, PC khoa học- kỹ thuật, PC báo chí- công luận, PC chính luận và PC sinh hoạt hàng ngày. Theo giáo sư, lời nói nghệ thuật không tạo ra phong cách chức năng riêng mà chỉ là một kiểu chức năng của ngôn ngữ.
So sánh hai cách phân loại trên chúng ta thấy: Cách thứ nhất phân loại còn thiếu một phong cách CNNN đang tồn tại thực tế hiện nay trong tiếng Việt , đó là PC thông tấn ( Ở đây chúng tui dùng thuật ngữ thông tấn thay cho thuật ngữ báo chí ). Cách thứ hai lại không có PC ngôn ngữ văn chương trong hệ thống PCCNNN tiếng Việt . Ðiều này không đảm bảo tính hệ thống của PCCNNN tiếng Việt và mâu thuẫn về khái niệm phong cách đã được đề cập ở phần phân loại của tác giả. Giáo trình này phân loại các PCCNNN tiếng Việt ra làm 6 loại. Ðó là : PC khẩu ngữ, PC khoa học, PC thông tấn, PC chính luận, PC hành chính và PC văn chương.
II- MIÊU TẢ CÁC PCCN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT
1. Phong cách khẩu ngữ
a- Khái niệm:
Phong cách KN là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp, đồng hành,...
PCKN có các dạng thể hiện như : chuyện trò, nhật kí, thư từ. Trong đó chuyện trò thuộc hình thức hội thoại, nhật kí thuộc hình thức văn bản tự thoại và thư từ thuộc hình thức văn bản cách thoại. Tuy nhiên, có thể thấy ở phong cách này, dạng nói là dạng giao tiếp chủ yếu. Ở dạng này tất cả những nét riêng trong sự thể hiện như: đặc trưng, đặc điểm ngôn ngữ được bộc lộ rõ và hết sức tiêu biểu. Có điều cần chú ý là không phải dạng nói nào cũng thuộc PCKN. Chỉ có những lời nói ( chuyện trò) trong giao tiếp mang tính không nghi thức mới thuộc PCKN. Ở PC này người ta còn chia làm hai dạng: PCKN văn hoá và PCKN thông tục. Ở mỗi dạng này lại có sự thể hiện riêng cả về đặc trưng cũng như về đặc điểm ngôn ngữ. Do đó, mỗi PCCNNN không phải là một khuôn mẫu khô cứng.
b- Chức năng và đặc trưng:
1- Chức năng : PCKN có các chức năng : trao đổi tư tưởng tình cảm và chức năng tạo tiếp. Những vấn đề mà PCKN đề cập không chỉ là những vấn đề cụ thể, đơn giản trong đời sống tình cảm, sinh hoạt hàng ngày mà còn là những vấn đề trừu tượng, phức tạp như chính trị xã hội, khoa học, nghệ thuật, triết học,...
2- Ðặc trưng: PCKN có 3 đặc trưng :
2.1- Tính cá thể: Ðặc trưng này thể hiện ở chỗ khi giao tiếp, người nói bao giờ cũng thể hiện vẻ riêng về thói quen ngôn ngữ của mình khi trao đổi, chuyện trò, tâm sự với người khác. Ngôn ngữ là công cụ chung dùng để giao tiếp trong một cộng đồng nhưng ở mọi người có sự vận dụng và thể hiện không giống nhau do nhiều nguyên nhân như: nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, tâm lí, tính cách, trình độ học vấn, văn hoá... Ðặc trưng này khiến cho sự thể hiện của phong cách KN cực kì phong phú, phức tạp, đa dạng.
2.2- Tính cụ thể: Ở PCKN, những cách nói trừu tượng, chung chung tỏ ra không thích hợp. Ðiều này do giao tiếp ở đây thường là giao tiếp hội thoại, sự tiếp nhận và phản hồi thông tin, tình cảm cần tức thời và ngắn gọn. Ðặc trưng này đã giúp cho sự giao tiếp trong sinh hoaüt hàng ngày trở nên nhanh chóng, dễ dàng, ngay trong trường hợp phải đề cập đến những vấn đề trừu tượng. Ví dụ:
tui cười nhạt:
- Nghe anh nói, tui nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à? Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:
- Âúy đấy, tui bi lắm. Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tui chưa nản có lẽ chỉ vì tui tin vào Ông Cụ. tui cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp mà cũng chỉ có đến thằng Ðờ Gôn.
tui nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy Ðờ Gôn. Anh lắc đầu:
- Bằng thế nào được Hồ Chí Minh!
Và anh tiếp:
- Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tui cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, Ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mĩ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp Ông Già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa lí gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mĩ xui thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy là đã phúc đời nhà nó rồi. Ðáng lẽ nó phải làm chằng chằng lấy chứ? (Nam Cao)
2.3- Tính cảm xúc: Ðặc trưng này gắn chặt với tính cụ thể. Khi giao tiếp ở phong cách KN người ta luôn luôn bộc lộ thái độ tư tưởng, tình cảm của mình đối với đối tượng được nói đến. Những cách diễn đạt đầy màu sắc tình cảm đã nảy sinh trực tiếp từ những tình huống cụ thể trong thực tế đời sống muôn màu muôn vẻ. Chính thái độ, tình cảm, cảm xúc làm thành nội dung biểu hiện bổ sung của lời nói, giúp người nghe có thể hiểu nhanh chóng, hiểu sâu sắc nội dung cơ bản và nhất là mục đích, ý nghĩa của lời nói.
Ví dụ: Anh Mịch nhăn nhó nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
Ông Lí cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi. - Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi, thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Ðối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Ðứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù. ( Nguyễn Công Hoan)
c- Ðặc điểm ngôn ngữ:
1- Ngữ âm :
Khi nói năng ở PC này người ta không có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm mà nói năng thoải mái, không những trong phát âm mà cả trong điệu bộ cử chỉ. Chính vì đặc điểm này mà chúng ta thấy PCKN là PC tồn tại rất nhiều những biến thể ngữ âm.
Ngữ điệu trong PCKN mang dấu ấn riêng của cá nhân, có tính chất tự nhiên , tự phát. Trong một số trường hợp, ngữ điệu là nội dung thông báo chính chứ không phải là lời nói.
2- Từ ngữ:
- Ðặc điểm nổi bật nhất của PC này là thường dùng những từ mang tính cụ thể, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm.
- Khi gọi tên hàng ngày, người ta không thích dùng tên khai sinh vì cách gọi này thường kém cụ thể, ít gợi cảm. Người ta tìm những cách đặt tên khác có khả năng gợi ra hình ảnh, đặc điểm cụ thể riêng biệt thường có ở một cá nhân.
- Những từ biểu thị các nhu cầu vật chất và tinh thần thông thường ( như ăn, ở, đi lại, học hành, thể dục thể thao, chữa bệnh, mua bán, giao thiệp, vui chơi, giải trí, sinh hoạt trong gia đình, trong làng xóm...) chiếm tỉ lệ lớn, có tần suất cao.
* Một số hiện tượng nổi bật:
+ Có một lớp từ chuyên dùng cho PCKN mà ít dùng ở các PC khác. Ví dụ: Hết xảy, hết ý, số dách, bỏ bố, bỏ mẹ, cút, chuồn... Những tiếng tục, tiếng lóng cũng chỉ dùng ở PC này.
+ Sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là láy tư. Ví dụ như: đỏng đa đỏng đảnh, nhí nha nhí nhảnh, tầm bậy tầm bạ, lí la lí lắt... Có khi sử dụng kiểu láy chen như:
-Làm ăn như tao thật là đáng chết, khách đến thì ít mà khứa đến thì nhiều.
+ Hay dùng cách nói tắt. Ví dụ : Nhân khẩu ( khẩu; chán nản ( nản; bi quanàbi.
+ Sử dụng những kết hợp không có quy tắc. Ví dụ: Ðẹp ( đẹp mê hồn, đẹp mê li rụng rốn, đẹp tàn canh giá lạnh, đẹp ve kêu, đẹp bá chấy...
+ Thường dùng những từ tượng thanh, tượng hình.
+ Thường dùng cách nói ví von, so sánh, chuyển nghĩa ẩn dụ hay hoán dụ.
3- Cú pháp:
- Trong tổng số những cấu trúc cú pháp được sử dụng ở PC này, câu đơn chiếm tỉ lệ lớn và có tần suất cao. Ðặc biệt, câu gọi tên ( như: câu cảm thán, câu chào hỏi, ứng xử...) được sử dụng nhiều.
- Ðặc điểm nổi bật ở PC này là tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau. Một mặt, khẩu ngữ dùng kết cấu tỉnh lược, có khi tỉnh lược đến mức tối đa nói bằng sự để trống hoàn toàn, mặt khác, dùng các kết cấu cú pháp có xen những yếu tố dư, lặp lại, có khi dư thừa một cách dài dòng lủng củng.
Ðây là một ví dụ về cách nói có xen nhiều yếu tố dư:
Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông Lí:
- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu. Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.
- Ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!
- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau.
- Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó nó xem à? ( Nguyễn Công Hoan)
d- Diễn đạt:
Do được dùng trong sinh hoạt hàng ngày nên PCKN có tính tự do, tuỳ tiện và phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí, cảm hứng của người trong cuộc. Ðiều này dẫn đến tình trạng đề tài, đối tượng được đề cập trong PCKN ít khi tập trung, đứt đoạn, ý nọ xọ ý kia, thiếu tính liên tục. Ví dụ:
Hoàng:- Lần thi này mày có dùng phao không?
Minh:- Không. Giám thị coi ngặt quá. Có lẽ thi lại.
Thành:- Thế mà vẫn có đứa phao được đấy. Nó giả vờ đau bụng ra ngoài. Hoàng:- Cứ phải học chắc thì vẫn hơn. À, chiều nay ta đi bách hoá cái nhỉ.
Thành:- Làm gì?
Hoàng:- Mua miếng vải may quần.
Minh:- Mua vải làm gì? Mua quần may sẵn có hơn không? Chiều vào Hà Ðông đi. Chấn:- Hà Ðông dạo này đang làm lại cái cầu to lắm.
Thành:- Thị xã này bây giờ rất đẹp. Hai bờ sông đã kè đá cả rồi. Như sông Nhêva ấy. Minh:- Mày đi Nga rồi à?
Thành:- Không. Nghe người ta nói thế.
Hoàng:- Tao đã uống cà phê ở quán Hương Giang một lần. Cạnh bờ sông, mát lắm. Minh:- Chẳng bằng quán Anh Chi ở Hồ Tây.
Chấn:- Mai lớp mình có phụ đạo triết học không?
Hoàng:- Hình như vào buổi chiều. Triết học loằng ngoằng quá, 76 câu hỏi.
Thành:- Cô giáo không hạn chế thì toi... [4, 90, 91]
2. Phong cách khoa học
a- Khái niệm:
PC khoa học là PC được dùng trong lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học. Ðây là PC ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu. Khác với PCKN, PC này chỉ tồn tại chủ yếu ở môi trường của những người làm khoa học ( ngoại trừ dạng phổ cập khoa học).
PC khoa học có ba biến thể: PC khoa học chuyên sâu, PC khoa học giáo khoa và PC khoa học phổ cập.
Khác với PC khẩu ngữ, ở PC này dạng viết là tiêu biểu.
b- Chức năng và đặc trưng:
Ông Bảo:- Thằng Chiến nhà ông thi mấy trường?
Ông Hùng:- Thì phải đủ ba lần mèo mới chịu mở mắt ra mà lị.
Ông Bảo:- Liệu có đỗ cả không?
Ông Hùng:- Thấy cháu nó nói là làm được. Cũng chưa biết thế nào. Không được thì toi mất hơn tấn luá.
Ông Bảo:- Có không đỗ thì một lần ra Hà Nội cũng sướng. tui ngần này tuổi chưa biết Hà Nội Hà ngoại ở đâu.
Ông Hùng:- Hôm thi xong tui bảo, đỗ đâu chưa biết hai bố con cứ phải ra bờ Hồ ăn một bữa kem cho đã miệng cái đã.
Ông Bảo:- Chắc là ngon lắm?
Ông Hùng:- Tuyệt. Ðời tôi... là lần đầu.
Ông Bảo:- Ông nói mà tui phát thèm.
Ông Hùng:- Kem Hà Nội thứ thiệt chứ không dởm như quê mình, đúng là tiền nào của ấy.
Ông Bảo:- Mấy trăm một que?
Ông Hùng:- Hà Nội làm gì có kem mấy trăm. Một ngàn. Chỗ nào cũng một ngàn.
Ông Bảo:- Thế ngon là phải. Quê mình có hai trăm. Rẻ thế nhưng con mẹ Ly bán kem cũng giàu nhanh ra phết.
Ông Hùng:- Nó mới bỏ chồng hay sao ấy nhỉ?
Ông Bảo:- Ừ. Ði theo thằng... thằng... thằng Tú chớp ảnh trên phố huyện. Anh ta cũng có con thi đại học đợt này đấy.
e- Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng minh. Không phải chết vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để cho nó ăn. Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tui đến nỗi chỉ còn một giúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu. Con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập đường phố. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay là vì hít phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó!
Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tui lại được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị!..
tui cười nho nhỏ. Chẳng biết tui cười gì, anh thanh niên cũng nhe những chiếc răng vẩu ra cười. Ðáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng manh quét trên sân gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám chạy ra. Một đôi mắt đen láy nhìn tôi...
f- Sự phát triển của các biến thể phương ngữ cho thấy sự tiến hoá liên tục của ngôn ngữ. Càng xa các trung tâm văn hoá, kinh tế, thương mại thì ngôn ngữ càng ít biến động, do đó càng giữ lại lâu, bảo tồn lâu dài những hiện tượng ngôn ngữ. Như vậy, ở các vùng núi cao, hay ở các vùng quê xa xôi, hẻo lánh thì còn lưu lại những dấu vết của tiếng Việt cổ xưa. Vì thế, khi nghiên cứu các phương ngữ, chúng ta có thể khôi phục lại, tìm thấy được dấu vết phát triển của tiếng Việt, chỉ ra được những biến thể và những bất biến trong lịch sử tiếng Việt, và do đó chỉ ra được những đặc điểm của tiếng Việt.
Nhiều sự vật, được PNBB và PNNB gọi bằng những tên khác nhau. Nghiên cứu những cái biểu đạt này cũng giúp ta thấy được những quy luật đáng lưu ý trong tiếng Việt.
Ví dụ, từ bông của tiếng Việt có nguồn gốc Mã Lai là bongga (Dẫn theo Bình Nguyên Lộc [53], Hoàng Thị Châu [14]). Từ bông là một từ cổ hơn từ hoa, một từ cũng trỏ cùng một đối tượng như bông, nhưng là một từ xuất hiện khi tiếp xúc với tiếng Hán. Ðồng nghĩa tuyệt đối là sự xa xỉ của ngôn ngữ tự nhiên (A.Meillet), vì thế, bước thứ nhất có sự phân bố lại cách dùng. Người miền Nam vẫn giữ lại từ bông còn người miền Bắc dùng từ hoa. Pháo bông, bông tai... trong PNNB ứng với pháo hoa, hoa tai... trong PNBB. Mặt khác, theo mô hình cấu tạo các từ ghép đẳng nghĩa, như đường sá, chợ búa, tre pheo, gà qué... trong PNBB đã hình thành từ bông hoa, lúc đầu cùng với cương vị là từ ghép đẳng nghĩa. Bước thứ hai, trong tư duy phân loại thực vật, có thứ vẫn được gọi là hoa nhưng có thứ lại gọi là bông chứ không còn là hoa nữa. Một mặt ta có hoa lan, hoa huệ, hoa mai... một mặt ta lại có bông lúa, bông kê, bông lau, bông sậy... Lúc này, bông không còn trỏ hoa nữa, nó đã chuyển sang ý nghĩa trỏ loại (bông lúa). Theo ý nghĩa đó, dần dần kết hợp bông hoa đã mất ý nghĩa của một từ ghép đẳng nghĩa mà trở thành một từ ghép chính phụ, ở đó bông chỉ còn ý nghĩa ngữ pháp trỏ loại từ. (Em muốn hái một bông hoa hồng...).
Nếu như từ bông được dùng ở PNNB thì ở phương ngữ này vẫn có hàng loạt từ ghép Hán Việt chứa yếu tố hoa như: hoa hậu, hoa khôi, hoa đăng, tinh hoa, hoa màu, hoa mĩ, hoa nguyệt, hoa miên, hoa văn...

MỤC LỤC

I. VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI 1
1. Ý nghĩa 1
2. Các cách phân loại PCNN 1
II- MIÊU TẢ CÁC PCCN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT 2
1. Phong cách khẩu ngữ 2
2. Phong cách khoa học 8
3. Phong cách thông tấn 10
5. Phong cách hành chính 17
6. Phong cách văn chương 19

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top