Download miễn phí Luận văn Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế





MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.1
1. Tính cấp thiết của đềtài.1
2. Mục tiêu nghiên cứu .2
3. Nội dung nghiên cứu.2
4. Phương pháp nghiên cứu .2
5. Phạm vi nghiên cứu .2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀVẤN ĐỀTRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
TRONG TƯPHÁP QUỐC TẾ.4
1.1. Khái quát chung vềtrọng tài thương mại trong tưpháp quốc tế.4
1.1.1. Khái niệm.4
1.1.1.1. Trọng tài thương mại trong tưpháp quốc tế.4
1.1.1.2. Thỏa thuận trọng tài.4
1.1.2. Đặc điểm .5
1.1.2.1. Phát sinh khi có thỏa thuận .5
1.1.2.2. Thủtục giải quyết đơn giản .5
1.1.2.3. Trọng tài không bị ảnh hưởng bởi các yếu tốchính trị.6
1.1.2.4. Xét xửkhông công khai.7
1.1.2.5. Phán quyết của trọng tài có giá trịchung thẩm .7
1.2. Cơsởlý luận vềvấn đềtrọng tài hương mại trong tưpháp quốc tế.8
1.2.1. Lược khảo vềtrọng tài thương mại trong tưpháp quốc tếcác nước trên thếgiới .8
1.2.1.1. Luật trọng tài Mỹ.8
1.2.1.2. Luật trọng tài Pháp.10
1.2.2. Sựcần thiết của trọng tài thương mại trong tưpháp quốc tế.11
1.2.2.1. Đảm bảo quá trình hội nhập vào nền kinh tếthếgiới của Việt Nam .11
1.2.2.2. Đa dạng hóa các cơquan giải quyết tranh chấp – Góp phần giải
quyết hiệu quảcác tranh chấp vềkinh doanh thương mại .15
1.2.2.3. Cung cấp cho các nhà kinh doanh một mô hình giải quyết tranh
chấp mới, có khảnăng đáp ứng những yêu cầu có tính nghềnghiệp của họ.17
CHƯƠNG 2: MỘT SỐVẤN ĐỀVỀTRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG
TƯPHÁP QUỐC TẾTHEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.19
2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài .20
2.2. Thỏa thuận trọng tài.21
2.3. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.26
2.4. Căn cứhủy phán quyết trọng tài .28
2.5. Thi hành phán quyết trọng tài .32
CHƯƠNG 3: MỘT SỐVƯỚNG MẮC TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀVẤN ĐỀTRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ
PHÁP QUỐC TẾ.38
3.1. Thỏa thuận trọng tài.38
3.2. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.40
3.3. Các quy định vềhủy quyết định trọng tài.41
3.4. Vấn đềthi hành phán quyết trọng tài.44
KẾT LUẬN.48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


được giải quyết bằng cách trọng tài nếu có thỏa thuận. Vì vậy, khi có
thỏa thuận trọng tài giải quyết một tranh chấp, một trong những vấn đề cần được
kiểm tra để xác định thỏa thuận trọng tài có hiệu lực không chính là tranh chấp
phát sinh có nằm trong phạm vi hoạt động thương mại không?
Có thể thấy, khái niệm hoạt động thương mại quy định tại K.3 - Điều 2 của
Pháp lệnh trọng tài thương mại được hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu
UNCITRAL. Khái niệm hoạt động thương mại trong Pháp lệnh được xây dựng
trên cở sở tổng hợp các dấu hiệu : hành vi thương mại + chủ thể thực hiện hành
vi thương mại gồm cá nhân, tổ chức kinh doanh + phạm vi, lĩnh vực thực hiện
hành vi thương mại như mua bán hành hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lý thương mại, ký gửi , thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng ,tư vấn, kỹ
thuật, li xăng, đầu tư ,tài chính, ngân hành ,bảo hiểm…Dấu hiệu quan trọng nhất
của khái niệm này là “hành vi thương mại”, tuy nhiên lại không được Pháp lệnh
giải thích rõ do vậy đã hạn chế giá trị thực tiễn của nó. Theo người viết, khái
8 Điều 49, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại.
niệm này chưa thực sự đem lại bất kỳ sự tiến bộ nào để giải quyết những bế tắc
về lý luận và thực tiễn trong việc phân định ranh giới giữa các tranh chấp dân sự,
kinh tế, thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam. Liên quan chặt chẽ
đến việc này là những vấn đề rất quan trọng khác như phân định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của những cơ quan khác nhau, vấn đề áp dụng luật nội dung,
luật tố tụng… Điều này không chỉ gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật mà
còn ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Ví dụ: khi một bên có khiếu nại về việc tranh chấp giữa các bên không thuộc
hoạt động thương mại theo Khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh, và trọng tài không có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó, thỏa thuận trọng tài giữa các bên phải bị coi
là vô hiệu thì toà án sẽ căn cứ vào những tiêu chí nào để giải quyết?
Thêm nữa, là sau ngày 1-7-2003 thì khái niệm “hoạt động thương mại” của
Pháp lệnh có được áp dụng hay không khi mà Luật thương mại hiện hành chưa
sửa đổi khái niệm tương tự (khoản 2 Điều 5). Theo quy định tại khoản 2 Điều 80
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ,trong trường hợp các văn bản pháp
luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn. Có nghĩa là các cơ quan áp dụng pháp luật - trong đó có trọng
tài - vẫn phải áp dụng khái niệm “hoạt động thương mại” theo khoản 2 Điều 5
của Luật thương mại. Sự mâu thuẫn về nội dung khái niệm “hoạt động thương
mại” trong pháp luật Việt Nam không chỉ gây khó khăn trong quá trình áp dụng
pháp luật mà còn gây mất lòng tin của các đối tác nước ngoài khi chọn luật áp
dụng giải quyết tranh chấp.
Trước vấn đề này, thật khó để xác định trọng tài có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp hay không, khi mà chúng ta chưa thể xác định được thế nào là hoạt
động thương mại? Vấn đề này, có ảnh hưởng rất lớn đến việc xem xét hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài, và như vậy, đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến việc có
diễn ra các giai đoạn sau của quá trình tố tụng trọng tài không?
2.2. Thỏa thuận trọng tài
Trong thực tiễn đã xảy ra những tình huống khi đương sự liên hệ đến trọng
tài thì trọng tài từ chối giải quyết vì cho rằng thỏa thuận trọng tài có “khuyết tật”
không phù hợp với quy tắc tố tụng trọng tài của mình. Khi đương sự liên hệ đến
tòa án thì tòa án cũng từ chối thụ lý với lý do giữa các bên đã có thỏa thuận trọng
tài và thỏa thuận trọng tài này vẫn được coi là đang có hiệu lực. Trường hợp các
bên không thể đạt được một thỏa thuận mới: hay bổ sung thỏa thuận trọng tài
“khuyết tật”, hay hủy bỏ nó thì tình cảnh của các bên thực sự là bi kịch. Pháp
lệnh đã đưa ra định nghĩa về thỏa thuận trọng tài và dành hẳn chương hai và điều
30 để giải quyết những vấn đề nêu trên.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2, Pháp lệnh trọng tài, thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có
thể phát sinh hay đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Về hình thức, thỏa
thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư,
điện báo, telex, fax, thư điện tử hay hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của
các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài
bằng văn bản. Ngoài ra, thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong
hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng 9.
Ngoài việc đưa ra định nghĩa về thỏa thuận trọng tài cũng như về hình thức
của thỏa thuận trọng tài, Pháp lệnh còn quy định các trường hợp thỏa thuận trọng
tài vô hiệu; mối quan hệ giữa điều khoản trọng tài với hợp đồng; xem xét thỏa
thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài.
Theo quy định tại Điều 10, thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong những trường
hợp sau đây:
• Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định
tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này;
• Người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định
của pháp luật;
• Một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ;
• Thỏa thuận trọng tài không quy định hay quy định không rõ đối tượng
tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà
sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung;
• Thỏa thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp
lệnh này;
• Bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
trọng tài vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài,
nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải
quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này.
Để tránh nguy cơ phán quyết trọng tài bị Tòa án tuyên hủy do thỏa thuận
9 Điều 9, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại.
trọng tài vô hiệu, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài
phải xem xét thỏa thuận trọng tài có rơi vào các trường hợp thỏa thuận trọng tài
vô hiệu liệt kê tại Điều 10 của Pháp lệnh không?
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, nếu có đơn khiếu nại của một bên về
việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh
chấp không có thỏa thuận trọng tài hay thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng
Trọng tài phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các
bên có yêu cầu khác. Bên khiếu nại đã được triệu tập hợp lệ mà vắng m
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top