ntthaonhi

New Member

Download miễn phí Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam





Chọn giải pháp thương lượng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc quân
Tưởng rút ngay vềnước, tránh tìnhtrạng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻthù, bảo
toàn thực lực, tranh thủthời gian hoà hoãn đểchuẩn bịchomột cuộc chiến đấu mới,
tiến lên giành thắng lợi. Lập trường của ta trong cuộc đàmphán với Pháp được Ban
Thường vụTrung ương xác địnhlà: độc lập nhưng liên minh với Pháp. Pháp phải thừa
nhận quyền dân tộc tựquyết của ta: chính phủ, quân đội, nghịviện, tài chính, ngoại giao
và sựthống nhất quốc gia của ta. Đảng ta đã nhấn mạnh, trong khi mởcuộc đàmphán ta
phải "không nhữngkhông ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến
bất cứlúc nào và ở đâu, màcòn phải hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để
cho việc đàmphán với Pháp làmnhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta"



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

), chú trọng chất
lượng, đồng thời chú ý nâng cao giác ngộ giai cấp trong lực lượng; nâng cao sự hiểu
biết về đường lối kháng chiến, trình độ kỹ thuật, chiến thuật. Quân đội được tăng cường
vũ khí, đạn dược, thuốc men. Năm 1949, thành lập Đại đoàn 308, đến cuối năm 1952 đã
xây dựng được 6 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo, nhiều trung đoàn bộ binh độc
lập và các Liên khu vũ trang tập trung có khoảng 33 vạn người. Cuộc vận động chỉnh
quân về chính trị và quân sự vào mùa hè năm 1953 đã nâng cao nhận thức chính trị và
trình độ kỹ thuật, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ. Công tác hậu cần được tăng cường,
lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường sá được xây dựng thêm...
Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch tiếp tục phát triển với nhiều hình thức
là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) do Cayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thư.
92
phong phú; đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh
vũ trang, vừa tiến công địch vừa chống địch càn quét. Các chiến dịch lớn của các đơn vị
chủ lực đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta vùng sau lưng
địch.
Để bồi dưỡng sức dân, củng cố hậu phương kháng chiến, năm 1952, Đảng phát
động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đạt kết quả tốt. Chỉ tính riêng
từ Liên khu V trở ra, sản lượng lương thực năm 1953 đạt 2,7 triệu tấn. Nhà nước đã ban
hành một số sắc lệnh về thuế nông nghiệp, thuế công thương, xuất khẩu, nhập khẩu...
Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia được thành lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra
đời. Thực hiện chính sách ruộng đất, từ năm 1949 đến năm 1953, nông dân đã được tạm
cấp gần 180.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ Việt gian, ruộng công, ruộng bỏ
hoang, ruộng vắng chủ... Ngay từ giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, Đảng đã chủ
trương không tịch thu ruộng đất của địa chủ, mà chỉ tịch thu ruộng đất và tài sản của đế
quốc, Việt gian phản quốc chia cho dân cày. Từ năm 1947 đến năm 1953, đã thực hiện
giảm tô 25%, chia ruộng đất cho nông dân; ban hành chính sách thuế nông nghiệp, hoãn
nợ, xoá nợ, nhằm hạn chế sự bóc lột của bọn địa chủ. Tháng 1-1953, Hội nghị Trung
ương lần thứ tư của Đảng đã kiểm điểm tình hình thực hiện chính sách ruộng đất, đề ra
chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Tháng 11-
1953, Hội nghị Trung ương lần thứ 5 của Đảng quyết định phát động quần chúng triệt
để giảm tô và phải thực hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến. Sau đó, tháng
12-1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất ở
vùng tự do, nhằm đẩy mạnh kháng chiến, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong gần một năm (1953-1954), chúng ta đã thực hiện 5 đợt giảm tô và đợt 1 cải
cách ruộng đất ở một số xã ở vùng tự do. Cải cách ruộng đất mới chỉ được làm thí điểm,
nhưng đã bộc lộ những khuyết điểm mang tính giáo điều, do chỉ đạo xử lý không đúng
một số trường hợp cụ thể trong thực hiện chính sách ruộng đất. Tuy vậy, chính sách triệt
để giảm tô và chia ruộng đất cho dân cày đã động viên tinh thần của nhân dân hậu
phương, khơi dậy một luồng sinh khí mới trong nhân dân lao động, đông đảo nhân dân
hăng hái sản xuất, đóng góp vượt mức sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần
quan trọng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến
thắng Điện Biên Phủ.
Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952, 1953 giúp cho
cán bộ, đảng viên quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu
dài, dựa vào sức mình là chính; khắc phục một bước những lệch lạc "tả" khuynh, hữu
khuynh. Ngoài ra, Đảng tiến hành phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng vũ trang, trong
các làng xã, xí nghiệp. Trong hai năm 1948-1949, kết nạp hơn 50 vạn đảng viên. Đến
đầu năm 1951, số lượng đảng viên phát triển tới 76 vạn. Tuy nhiên, kết quả chỉnh Đảng
phần nào có bị hạn chế do có những thiếu sót trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Để cứu vãn tình thế sau thất bại ở Chiến dịch Biên giới, bọn hiếu chiến Pháp phải
dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ. Lợi dụng tình thế đó, đế quốc Mỹ can thiệp ngày
càng sâu vào Đông Dương, vừa giúp Pháp, vừa tìm cơ hội để hất cẳng Pháp. Chỉ riêng
về ngân sách chiến tranh, viện trợ của Mỹ tăng dần từ 20% (năm 1950) lên 50% (1952)
93
và 80% (1954). Có thêm sự trợ giúp của Mỹ, bọn hiếu chiến Pháp tìm mọi cách tăng
thêm quân số, xây dựng thêm nhiều binh đoàn cơ động mạnh, liên tục thay tổng tư lệnh
quân đội viễn chinh ở Đông Dương, thực hiện nhiều kế hoạch phiêu lưu quân sự.
Với thế chủ động trên chiến trường, quân ta liên tiếp mở các chiến dịch: chiến
dịch Trung du (tháng 12-1950), chiến dịch đường 18 (tháng 3-1951), chiến dịch Hà - Nam -
Ninh (tháng 5-1951)... Tháng 10-1951, quân Pháp mở cuộc hành binh đánh chiếm thị xã
Hòa bình, hòng giành lại quyền chủ động trên chiến trường chính. Tận dụng cơ hội này,
quân ta đã bao vây, tiến công chia cắt đồng thời đưa một bộ phận bộ đội chủ lực tiến
vào sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá ngụy quyền, củng cố chính quyền nhân dân. Những
đòn tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và chiến tranh du kích đã phát triển
lên một bước mới. Cuối tháng 2-1952, địch buộc phải rút chạy khỏi Hòa Bình. Chiến dịch
Hòa Bình kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải
phóng, mở rộng khu căn cứ du kích liên hoàn từ Bắc Giang, Quảng Yên, Kiến An, Thái
Bình đến Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông. Âm mưu giành lại thế chủ động của Pháp trên
chiến trường chính bị thất bại hoàn toàn.
Tháng 10-1952, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, quân ta mở Chiến dịch Tây
Bắc. Sau ba tháng chiến đấu (từ ngày 4-10 đến ngày 30-12-1952) quân ta đã tiêu diệt
được 6.000 tên địch, giải phóng đại bộ phận Tây Bắc, phá tan âm mưu lập "Xứ Thái tự
trị" của giặc Pháp.
Tháng 4-1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào
mở Chiến dịch Thượng Lào, giải phóng Xiêng Khoảng, một phần tỉnh Sầm Nưa. Căn cứ
kháng chiến Thượng Lào nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam, tạo thế uy hiếp mạnh đối
với quân Pháp.
Những thắng lợi to lớn và toàn diện của quân và dân ta từ sau Đại hội lần thứ II
của Đảng (tháng 2-1951) đã làm thay đổi lớn về lực và thế của ta, tạo điều kiện để quân và
dân ta bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
Để giành một thắng lợi quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có "danh dự
" cho Pháp, tướng Nava được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông
Dương. Nava vạch ra một kế hoạch quân sự dựa trên sự nỗ lực cao nhất của Chính phủ
Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mỹ, v
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top