Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
cơ hội và thách thức đối với một số ngành dịch vụ Việt nam sau khi gia nhập Wto
Lời mở đầu
1.Tính tất yếu của đề tài
Trong mấy thập kỷ gần đây, khu vực dịch vụ đã phát triển rất mạnh mẽ, và đóng góp ngày càng lớn cho các nền kinh tế. ở các nước phát triển giá trị ngành dịch vụ chiếm tới 70- 80% GDP, còn con số trung bình của các quốc gia đang phát triển là gần 58% tổng sản lượng. Trong khi đó ngành dịch vụ của Việt Nam, dù đã có bước tiến vượt bậc những năm vừa qua, hiện chỉ đạt khoảng 40% GDP.
Nhìn từ các nền kinh tế phát triển và đang nổi, có thể thấy dịch vụ là một lĩnh vực không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia mà Việt Nam lại là một thực thể trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam đã là thành viên chính thức Tổ chức Thương mại thế giới-WTO. Nhưng trong khi đang nỗ lực để quay cùng vòng quay chung của thế giới, Việt Nam lại phải đối mặt với nguy cơ bị văng khỏi vòng quỹ đạo nếu không có những bước đi hội nhập thích hợp.
Có thể nói, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đang và sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển các ngành kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng và đời sống người dân. Song bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn không chỉ cho toàn bộ nền kinh tế mà còn cho cả từng ngành, từng lĩnh vực nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với những ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế trước đây được sự bảo hộ và trợ cấp của Chính phủ Việt Nam như bảo hiểm, vận tải,... và đặc biệt là ngành viễn thông và ngân hàng. Hai lĩnh vực dịch vụ này những cơ hội mới gì và phải đối mặt với những thách thức như thế nào sau khi hội nhập? Chúng ta sẽ phải có những giải pháp như thế nào để dịch vụ viễn thông và ngân hàng ngày càng mở rộng và trở thành một cơ cấu năng động của nền kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước? Nhằm giải đáp những câu hỏi này, em đã quyết định chọn đề tài cho khoá luận tốt nghiệp là: “Cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp và trong tầm hiểu biết còn rất nhiều hạn chế, bản thân không thể đánh giá hết tác động của việc gia nhập WTO đối với tất cả các ngành dịch vụ của Việt Nam hiện nay mà chỉ xin phép đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và đánh giá một phần những tác động của việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và đặc biệt chú trọng vào việc đánh giá những cơ hội và thách thức đối với hai ngành dịch vụ Viễn thông và ngân hàng sau khi gia nhập.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Sau khi tìm hiểu thực trạng phát triển của hai ngành dịch vụ viễn thông và dịch vụ ngân hàng trước và sau khi gia nhập WTO, đánh giá những tác động của việc gia nhập WTO đối với hai ngành dịch vụ này cũng như nghiên cứu những nội dung về hội nhập thương mại dịch vụ trong WTO, khoá luận sẽ đi sâu vào xem xét, đánh giá những cơ hội và thách thức mới đối với hai ngành dịch vụ này của Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Từ đó nêu vấn đề và kiến nghị một số giải pháp hội nhập hữu hiệu trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng của Việt Nam với hi vọng rằng trong tương lai Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội đẩy mạnh, phát triển thương mại dịch vụ, góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia.
4. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ Việt Nam quả không phải là một đề tài mới. Tuy nhiên có thể thấy rằng đây là một đề tài tương đối động bởi cơ hội và thách thức luôn luôn biến đổi không ngừng. Hôm nay vấn đề này là cơ hội nhưng ngày mai có thể lại là thách thức. Quan trọng là làm thế nào tận dụng tốt những cơ hội và biến những thách thức thành những cơ hội cho chính mình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, một số phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng như: phương pháp phân tích và thống kê toán, phương pháp phân tích tổng hợp …Các phương pháp này được sử dụng kết hợp chặt chẽ với nhau trong từng phần của đề tài.
6. Kết cấu của đề tài :
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng chữ cái viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục , đề tài nghiên cứu gồm 3 phần chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung
Chương II: Thực trạng dịch vụ viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Cơ hội và thách thức sau khi gia nhập – giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức.
Và để hoàn thành bài khoá luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô giáo hướng dẫn - TS. Đỗ Hương Lan vì những ý kiến đóng góp quý báu cũng như sự giúp đỡ tận tình của cô cho bài khoá luận. Em cũng chân thành Thank các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận.
Do thời gian thực hiện khoá luận hạn hẹp, và do nhận thức của người viết còn nhiều hạn chế, hơn nữa đây lại là một đề tài tương đối tương đối rộng , vì vậy khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp phê bình của thầy cô và các bạn để bài khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương I
Cơ sở lý luận chung

I. Tổng quan về dịch vụ và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ
1. Dịch vụ và vai trò ngày càng tăng của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới
1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại dịch vụ
1.1.1 Khái niệm dịch vụ
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho việc nêu ra một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa, các Quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi Quốc gia. Ngay cả Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) cũng không nêu lên một khái niệm cụ thể về dịch vụ.
Theo điều I, khoản 3b của GATS viết rằng: “Dịch vụ” bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của Chính phủ.
Sau đó khoản 3c cho biết “Dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của Chính phủ” là bất cứ dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở thương mại, cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hay nhiều người cung cấp dịch vụ.
Như vậy, từ quy định của GATS ta chỉ biết được phạm vi dịch vụ điều chỉnh bởi hiệp định này chứ không hề có được một khái niệm thực sự về dịch vụ. Vì vậy, để hiểu xem dịch vụ là gì, chúng ta có thể tham khảo một vài khái niệm dịch vụ khác nhau.
Theo C.Mác, “dịch vụ là một hoạt động mang lại lợi ích và lợi ích đó có thể là hữu hình hay vô hình”.
Còn vào những thập niên 30 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Colin Clark là những người đầu tiên đề xuất việc chia nền kinh tế thành ba ngành: ngành thứ nhất, ngành thứ hai và ngành thứ ba (trong các tài liệu thống kê thường được phân loại như là các lĩnh vực 1) nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; 2) công nghiệp; 3) dịch vụ). Clark định nghĩa ngành kinh tế thứ ba này là “các dạng hoạt động kinh tế không được liệt kê vào ngành thứ nhất và thứ hai”. Định nghĩa này đã phản ánh việc từ lâu ngành thứ ba, tức là ngành dịch vụ, được coi là phần dôi ra của nền kinh tế, trong khi ngành sản xuất chế tạo được hiểu như nền tảng của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Cùng với việc vai trò của dịch vụ ngày càng tăng, các học giả đã chú ý nhiều hơn tới việc nghiên cứu về dịch vụ. Một số người cho rằng dịch vụ thực chất là “các hoạt động không mang tính đồng nhất, chủ yếu tồn tại dưới hình thức phi vật chất do các cá nhân hay các tổ chức cung cấp, trong đó hoạt động tiêu thụ và sản xuất diễn ra đồng thời”. Như vậy, định nghĩa này coi dịch vụ thực chất là một loại sản phẩm vô hình và dựa vào các thuộc tính của dịch vụ để đưa ra khái niệm. Việc xác định như vậy chưa thể hiện tính bao quát trong xác định khái niệm rõ ràng về dịch vụ. Chẳng hạn, một số dịch vụ cũng có thể hữu hình như các dịch vụ cắt tóc hay xem ca hát, nhạc kịch.
Định nghĩa về dịch vụ do T.P Hill đưa ra năm 1977 có ảnh hưởng khá lớn tới các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. Theo Hill, “dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Định nghĩa này tập trung vào sự thay đổi điều kiện hay trạng thái nên tránh được việc định nghĩa dịch vụ dựa trên tính vô hình. Các tiêu chí như vô hình, có thể lưu trữ trở thành các yếu tố mà dịch vụ có thể có. Ngoài ra, Hill cũng nhấn mạnh tới sự khác biệt giữa sản xuất dịch vụ và sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm của một hoạt động dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hoá bị tác động, trong khi quá trình sản xuất dịch vụ là hoạt động tác động tới người hay hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó.
Tuy nhiên, trên thực tế chưa hề có định nghĩa nào thật chính xác về dịch vụ. Vậy để có cơ sở phân biệt dịch vụ với hàng hoá có lẽ cần dựa vào những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ so với sản phẩm hàng hoá.
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của dịch vụ
- Tính vô hình hay phi vật chất
Dịch vụ có tính vô hình. Người ta không thể nhìn thấy, thử mùi vị, nghe hay ngửi chúng trước khi tiêu dùng. Khách hàng không thể biết chất lượng phục vụ ở một khách sạn nếu không đến đó thử đặt phòng hay học viên không thể biết được chất lượng giảng dạy nếu không trực tiếp tham gia lớp học... Người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó như: thương hiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác đã tiêu dùng dịch vụ hay qua thông tin quảng cáo.
- Tính không thể tách rời và không lưu giữ được
Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Một dịch vụ được tiêu dùng khi nó đang được tạo ra và khi ngừng quá trình sản xuất có nghĩa là việc tiêu dùng dịch vụ ấy cũng ngừng lại.
Khác với sản xuất vật chất, sản xuất dịch vụ không thể sản xuất sẵn rồi lưu vào kho chờ tiêu thụ, tức là sản phẩm dịch vụ không có khả năng cất trữ. Dịch vụ không thể tách rời nguồn gốc, trong khi hàng hoá vật chất tồn tại không phụ thuộc vào sự vắng mặt hay có mặt nguồn gốc của nó.
- Tính không đồng nhất và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rộng, tuỳ từng trường hợp vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, một ca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành công với khách hàng này nhưng lại không thành công với một khách hàng khác bởi mức độ thành công của nó không chỉ phụ thuộc vào tay nghề của những người thực hiện ca phẫu thuật, các phương tiện kỹ thuật trợ giúp mà còn phụ thuộc vào tâm trạng và các yếu tố tâm lý của họ. Sự không ổn định chất lượng là lý do giải thích tại sao người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến người đã tiêu dùng trước trong khi lựa chọn người cung cấp dịch vụ.
1.1.3 Phân loại dịch vụ trong GATS
Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều các hệ thống phân loại dịch vụ khác nhau dựa trên các mục đích và tiêu chí khác nhau. Phân loại dịch vụ theo hiệp định GATS của WTO là hệ thống phân loại khá đơn giản và phục vụ tốt cho đàm phán thương mại quốc tế.
Về cơ bản phân loại này dựa theo CPC, tức là dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Theo GATS, toàn bộ ngành dịch vụ được chia ra 12 ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành. Có 155 phân ngành dịch vụ. Đặc biệt ngành thứ 12 và nhiều nhóm phân ngành đều có mục “các dịch vụ khác” giúp cho việc sắp xếp phân loại dịch vụ vào các ngành và phân ngành được dễ dàng. Trên thực tế các nhà đàm phán ít quan tâm đến các dịch vụ thuộc vào mục “các dịch vụ khác” này và thường tập trung nhiều nhất vào các dịch vụ mà việc tự do hoá sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh nhất.
Mười hai ngành dịch vụ được liệt kê trong GATS gồm:
- Dịch vụ kinh doanh, bao gồm: dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ máy tính và các lĩnh vực liên quan, dịch vụ nghiên cứu và triển khai, dịch vụ cho thuê bất động sản, dịch vụ kinh doanh khác.
- Dịch vụ thông tin, bao gồm: dịch vụ bưu điện, dịch vụ chuyển phát nhanh, dịch vụ viễn thông, dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ khác.
- Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật, bao gồm: dịch vụ xây dựng nhà cửa, dịch vụ xây dựng dân dụng, dịch vụ lắp đặt máy móc, dịch vụ hoàn thiện các công trình, dịch vụ khác.
- Dịch vụ kinh tiêu, bao gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ đại lý độc quyền, dịch vụ khác.
- Dịch vụ đào tạo, bao gồm: dịch vụ đào tạo tiểu học, dịch vụ đào tạo trung học, dịch vụ đào tạo đại học, dịch vụ đào tạo trung học cho người lớn, dịch vụ đào tạo trung học khác.
- Dịch vụ môi trường, bao gồm: dịch vụ thoát nước, dịch vụ xử lý chất thải, dịch vụ vệ sinh và các hoạt động tương tự, dịch vụ khác.
- Dịch vụ tài chính, bao gồm: dịch vụ bảo hiểm và các lĩnh vực liên quan tới bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm), dịch vụ khác.
- Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và xã hội, bao gồm: dịch vụ chữa bệnh, dịch vụ bệnh viện, dịch vụ xã hội, dịch vụ sức khoẻ và xã hội khác.
- Dịch vụ du lịch và liên quan, bao gồm: dịch vụ khách sạn và nhà hàng, dịch vụ đại lý và điều hành du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ khác.
- Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao, bao gồm: dịch vụ giải trí (nhà hát, ca nhạc, xiếc...), dịch vụ báo chí, tin tức, dịch vụ thư viện, kiến trúc, bảo tàng, dịch vụ thể thao và các dịch vụ giải trí khác.
- Dịch vụ vận tải, bao gồm: dịch vụ vận tải đường biển, dịch vụ vận tải nội thuỷ, dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ vận tải vũ trụ, dịch vụ vận tải đường sắt, ô tô, dịch vụ vận tải đường ống, dịch vụ vận tải liên quan tới tất cả các cách vận tải, dịch vụ vận tải khác.
- Các dịch vụ khác.
1.2 Các hình thức cung cấp dịch vụ quy định trong GATS
1.2.1 Cung cấp qua biên giới (Cross border)
Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào trong lãnh thổ của một nước thành viên khác. Trong cách này, chỉ có dịch vụ được chuyển qua biên giới còn người cung cấp dịch vụ thì không dịch chuyển. Ví dụ như việc cung cấp thông tin và tư vấn qua fax hay thư điện tử hay việc vận chuyển hàng hoá. Người cung cấp dịch vụ không xuất hiện trên lãnh thổ của nước thành viên tiêu dùng dịch vụ đó.


Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về viễn thông của Chính phủ thì vai trò của Bộ Bưu chính viễn thông là rất quan trọng. Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp đối với lĩnh vực viễn thông Bộ Bưu chính viễn thông cần có những báo cáo và đề xuất chính xác, hợp lý và phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển của ngành viễn thông trong tương lai để từ đó chính phủ có thể đưa ra những chính sách phù hợp với quá trình hội nhập của toàn bộ nền kinh tế đồng thời đúng với thực trạng phát triển của ngành. Tránh tình trạng chính sách của chính phủ ban hành ra lại quá xa với thực tế, các doanh nghiệp viễn thông không hiểu và không thực hiện được.
Ngoài ra, Bộ Bưu chính viễn thông cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp với các Bộ ngành khác như Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải ... trong việc hoạch định chính sách quản lý ngành viễn thông, đảm bảo sự thống nhất về chính sách trong toàn bộ máy chính phủ về các vấn đề thuộc ngành viễn thông.
Thứ hai, Bộ Bưu chính cần tích cực giám sát, chỉ đạo chặt chẽ và trình chính phủ quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông và đặc biệt là việc thành lập và hoạt động của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam theo mô hình tập đoàn
Hình thành nên các tập đoàn kinh tế là một xu thế phát triển kinh tế tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ cao. Với vai trò tiên phong trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam, VNPT đã được Chính phủ cho phép hoạt động theo mô hình tập đoàn trong năm 2006, đây có thể coi là một bước đột phá lớn trong ngành viễn thông Việt Nam vì hiện này VNPT đang chiếm thị phần rất lớn tại thị trường Việt Nam và được đánh giá là có đủ khả năng cạnh tranh với các tập đoàn viễn thông nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường viễn thông. Tuy nhiên, đây là một mô hình còn khá mới ở Việt Nam, kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, do vậy cần có sự quản lý, giám sát cũng như hỗ trợ chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước để có thể đạt được những kết quả mong muốn.
Thứ ba, phát triển khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
Bộ Bưu chính viễn thông cần tập trung nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, triển khai các đề tài nghiên cứu cấp Bộ và cấp Nhà nước, các dự án thử nghiệm các công nghệ viễn thông có tính chất chiến lược, có tính thực tiễn cao để từng bước đưa vào ứng dụng đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam như : mạng thế hệ sau, thông tin di động thế hệ thứ 4 ...Ưu tiên triển khai các đề tài nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách nhằm nhanh chóng hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực viễn thông phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần hội nhập WTO thành công.
Thứ tư, điều chỉnh giá cước, phí và lệ phí
Hiện nay, giá cước viễn thông của Việt Nam vẫn được coi là cao hơn các quốc gia trong khu vực, điều này đang gây cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bộ Bưu chính viễn thông cần thực hiện cân đối lại giá cước, điều chỉnh cước điện thoại nội hạt trên cơ sở giá thành. Khuyến khích các hình thức khuyến mại cho người sử dụng dịch vụ viễn thông trên cơ sở quy định của pháp luật đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng.
Bộ Bưu chính viễn thông cần điều chỉnh mức cước thanh toán quốc tế đến mức trung bình trong khu vực để đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước nghiên cứu đổi mới hệ thống lệ phí, phí cấp phép, sử dụng tài nguyên viễn thông phù hợp với cơ chế thị trường
Thứ năm, thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý kết nối và quản lý hệ thống đường trục xuyên quốc gia
Trong điều kiện hiện nay, việc dùng chung mạng viễn thông của các doanh nghiệp là rất cần thiết khi cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, vấn đề này rất dễ gây ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động, do vậy đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ từ Bộ Bưu chính viễn thông.
Hệ thống đường trục viễn thông quốc gia bao gồm các đường truyền dẫn đường dài trong nước, quốc tế và các cổng thông tin quốc tế, có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động của toàn bộ mạng viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước do vậy Bộ bưu chính viễn thông cần nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với hệ thống này, nhằm đảm bảo sự hoạt động thông suốt của mạng lưới viễn thông quốc gia an toàn, bí mật.


2.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam
Trước hết, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam cần thay đổi nhận thức, tư duy về hội nhập, tìm hiểu rõ các quy định của WTO
Một điều rất đáng lo ngại hiện nay là không chỉ các doanh nghiệp viễn thông mà các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn khá mơ hồ về quá trình gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Trong một số bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vẫn còn tồn tại tâm lý trông chờ ỷ lại vào Chính phủ đặc biệt là các doanh nghiệp từ trước đến nay vẫn quen được Nhà nước bảo hộ trong đó có ngành viễn thông. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam không phải là công việc của riêng Chính phủ Việt Nam mà nó đòi hỏi phải có nỗ lực của toàn dân, toàn bộ các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, chỉ có sự tổng hợp quyết tâm của toàn bộ nền kinh tế thì Việt Nam mới có thể thu được thành công khi gia nhập WTO. Khi mở cửa lĩnh vực viễn thông, tham gia vào một môi trường cạnh tranh gay gắt và bình đẳng được bảo hộ bởi pháp luật quốc tế, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam sẽ phải tự mình kinh doanh mà không nhận được bất cứ sự bảo hộ nào của Chính phủ, chỉ có những doanh nghiệp nào có tư duy hội nhập đúng đắn, chiến lược cạnh tranh tốt mới có thể tồn tại và phát triển được, ngược lại nếu doanh nghiệp nào trông chờ ỷ lại vào sự bảo hộ của chính phủ, không có khả năng cạnh tranh thì sẽ bị đào thải và không thể tránh khỏi sự sụp đổ ngay chính trên thị trường nội địa.
Thứ hai, chủ động hợp tác, liên minh nâng cao khả năng cạnh tranh với các tập đoàn viễn thông mạnh của nước ngoài
Khi phải đối mặt với các tập đoàn viễn thông quốc tế lớn, việc liên minh giữa các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Khi tiến hành liên minh các doanh nghiệp sẽ có cơ hội phát huy tối đa lợi thế so sánh của doanh nghiệp mình đồng thời khắc phục được các hạn chế từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự liên minh còn giúp bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam khi có các cuộc tranh chấp xẩy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, tăng cường sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông
Hiện tại, do điều kiện cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn hạn
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Luận văn Kinh tế 0
M Những biện pháp cơ bản để phát triển du lịch Hội An đến năm 2010 theo hướng công nghiệp hoá Luận văn Kinh tế 0
D Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế xã hội giai đo Luận văn Kinh tế 0
Y Bối cảnh trong nước và quốc tế. Những cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển đất nước đến năm 2030 Luận văn Kinh tế 3
B Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ - Những hạn chế về phát hành thẻ của ngâ Luận văn Kinh tế 0
Y Những vấn đề cơ bản về việc làm và ảnh hưởng của việc làm ở nông thôn tới phát triển kinh tế xã hội Luận văn Kinh tế 0
H Phân tích những yếu tố đe dọa và cơ hội thị trường Luận văn Kinh tế 0
C những cơ hội và thách thức trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Asean Luận văn Kinh tế 0
R Những thách thức và cơ hội đối với ngành Dệt - May khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương Mại Thế giới Luận văn Kinh tế 0
L Nhóm nam mại dâm đồng giới và những nguy cơ xã hội Văn hóa, Xã hội 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top