He0_Style

New Member

Download miễn phí Đề tài Tìm hiểu về thị trường tài chính và các công cụ của thị trường tài chính





Năm điều kiện để gia nhập liên minh tiền tệ châu Âu là thiếu hụt ngân sách nhỏ hơn 3% GDP, tổng nợ chính phủ ít hơn 60% GDP, lạm phát dưới 2,72%, lãi suất dài hạn dưới 8,23%/năm và đã tham gia cơ chế tỷ giá ngoại hối, trong đó điều kiện thâm hụt ngân sách không quá 8% là điều kiện khó khăn đối với nhiều nước đây là số lớn khi chúng ta biết rằng GDP của liên minh này khoảng trên 4 ngàn tỷ USD, và năm 1997 có thể sẽ là năm đầu tiên thâm hụt ngân sách của chính phủ Hoa kỳ giảm xuống dưới 100 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp từ nhiều nguồn song chủ yếu là phát hành tín phiếu kho bạc hay trong dài hạn bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Chắc hẳn đây là thị trường qui mô to lớn và có sức hấp dẫn cao vì chủ thể phát hành có uy tín bậc nhất sẽ cạnh tranh gay gắt với các công cụ khác trên thị trường tài chính. Như vậy chính phủ cũng là một người bán trên thị trường tài chính, một chủ thể đặc biệt và lớn góp phần quyết định lượng cung trái khoán trên thị trường. Khi chính phủ cần thiết phải có một khoản tiền phục vụ cho nhu cầu nào đó thì chính phủ sẽ phát hành tín phiếu muốn cho công cuộc huy động được nhanh chóng ngoài uy tín của mình chính phủ sẽ nâng lãi suất của mình tới một mức hấp dẫn để bán hết số hàng hoá của mình trên thị trường. Dân chúng sẽ đổ xô đi mua loại tín phiếu này và kết quả là các công ty cũng phải nâng lãi suất trái phiếu của mình lên nếu không dân chúng sẽ giành hết phần ưu ái cho chính phủ, do đó nhân tố ngân sách chính phủ có lúc cũng sẽ quyết định lãi suất trên thị trường tài chính trên phạm vi quốc gia đó.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

trở về với quy mô lớn hơn hay chi ít cũng còn nguyên vẹn giá trị hay không? Như vậy là họ có thể tìm kiếm được một đối tác có thể tin cậy được, có nguồn lực đủ mạnh để thanh toán khoản tiền đã chuyển cho anh ta trong việc phát hành các công cụ tài chính, chủ thể phát hành có vị trí quan trọng. Thông thường nhà nước được coi là đối tác làm ăn tin cậy nhất vì đó là người nắm pháp luật trong tay và có nguồn ngân sách khổng lồ. Nhưng có ai dám mua trái phiếu chính phủ Mêxicô sau khi nước này tuyên bố không trả các món nợ quốc tế trong cuộc khủng hoảng vào năm 1994. Dân chúng có dám bỏ tiền ngay cho chính chính phủ của tân tổng sau khi ông này lật đổ vị tổng thống cũ Môbutu của nước Zaie - quốc gia châu Phi liên tục xảy ra các cuộc nội chiến. Nhưng đây chỉ là những trường hợp hiếm khi xảy ra với các nước kinh tế vững mạnh, chính trị ổn định như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức thống nhất... thì khả năng chính phủ không thanh toán các khoản nợ là không xảy ra.
Với từng công cụ tài chính cụ thể, coi là người phát hành có tính chất quyết định đến lãi suất, thông thường thì lãi suất của các công cụ tài chính do chính phủ phát hành sẽ thấp hơn các công cụ do công ty phát hành.
1.2. Kỳ hạn của các công cụ tài chính
Theo trình bày ở trên thì thị trường hiện nay chủng loại các công cụ tài chính thật đa dạng. Xét về kỳ hạn thì các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có kỳ hạn ngắn nhất chỉ trên dưới một năm, còn trên thị trường vốn thì kỳ hạn dài hơn.
Lãi suất hoàn vốn
Theo kỳ thanh toán
0
Kỳ hạn của công chúng có rất nhiều loại tùy theo từng đợt phát hành với trái phiếu công ty kỳ hạn thông thường là 5,10,20 năm hay thậm chí đến 30 hay 50 năm.
Trong thực tế lãi suất của các công cụ tài chính có kỳ hạn khác nhau thì mang lại lãi suất khác nhau và các công cụ ngắn hạn thường có lãi suất cao hơn các công cụ ngắn hạn như hình vẽ bên:
Nói tóm lại câu hỏi đặt ra ở phần này: nhân tố kỳ hạn ảnh hưởng tới lãi suất của công cụ tài chính như thế nào?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời, đã có một số lý thuyết được đưa ra để giải thích vấn đề này. Các lý thuyết đưa ra thường gặp trở ngại: Nếu giải thích được đường cong lãi suất thì không giải thích được tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn thay đổi khi các công cụ dài hạn có xu hướng thay đổi theo.
Theo lý thuyết về “giả thuyết dự tính” đưa ra quan điểm: “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của lãi suất ngắn hạn mà dân chúng dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó”. Do vậy lý thuyết này đã thành công trong việc giải thích tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn, dài hạn lại thay đổi phụ thuộc lẫn nhau.
Theo “lý thuyết thị trường phân cách” đúng như thế gọi của nó cho rằng lãi suất xác định cho một công cụ nào đó được xác định bằng cung cầu với trái khoán kỳ hạn đó và không chịu tác dụng của những kỳ hạn đó, tức là những trái khoán không phải là những hàng hóa thay thế cho nhau. Lý thuyết này được bổ sung thêm một giả thiết nữa là người ta thường ưu tiên cho những khoản đầu tư ngắn hạn hơn, lý thuyết này đã thành công trong giải thích đường cong lãi suất thường dốc lên phía trên.
Lãi suất hoàn vốn
Hạn kỳ thanh toán
0
Lý thuyết môi trường ưu tiên đã khắc phục được nhược điểm của hai lý thuyết trên bằng cách cho rằng “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trông đợi xuất hiện trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với mức bù hạn kỳ, mức bù này ứng với hạn kỳ trái khoán đó”.
Do đó chúng ta thấy rằng lý thuyết môi trường ưu tiên là tổng hợp của 2 lý thuyết trên và nó cũng đã đưa ra các giải thích tại sao trong thực tế các đường lãi suất lại có các chiều dốc khác nhau:
Cơ sở của việc giải thích dựa vào hai giả thiết: Dân chúng đoán rằng lãi xuất của các trái khoán ngắn hạn trong tương lai có trung bình thấp hơn mức lãi suất ngắn hạn hiện hành nhưng lại lớn hơn cả mức bù kỳ hạn. Do đó đường lãi suất có dạng như trên.
* Liên hệ ở Việt Nam
ở nước ta hiện nay mối liên hệ giữa kỳ hạn của một số công cụ tín dụng, cụ thể là lãi suất tiền gửi được công bố bởi ngân hàng Viêtcombank như sau:
Kỳ hạn Lãi suất
3 tháng 0,6%
6 tháng 0,65%
Không kỳ hạn 0,4%
Hiện nay kho bạc nhà nước ta cũng đang phát hành loại trái phiếu kho bạc nhà nước kỳ hạn 2 năm lãi suất 12%.
Như vậy là trái phiếu kho bạc nhà nước đã phát hành loại công cụ có kỳ hạn dài hơn và lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi ở trên, điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đã phân tích ở trên. Nếu xem xét ngânhàng là người cho vay thì trước năm 1996, lãi suất cho vay giữa ngắn hạn và dài hạn hoàn toàn khác với lý thuyết trên, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên hiện nay đã được điều chỉnh lại, đây là chuyển biến tích cực khuyến khích các ngân hàng thương mại mạnh dạn hơn trong việc huy động vôn cho vay trong dài hạn.
ở Việt Nam thị trường tài chính chưa phát triển và ta cũng chưa có thị trường chứng khoán. Do đó trên thị trường tài chính thiếu vắng các công cụ tài chính trung và dài hạn. Với người dân Việt Nam hay cũng giống như người dân ở các nước khác trên thế giới thật khó mà kiên trì đợi đến 5 năm hay 10 năm để thu hồi khoản vốn cho vay. Có nghĩa rằng ở nước ta hiện nay thông thường thì lãi suất hoàn vốn đúng bằng mức lợi tức hay là người dân sẽ gửi nó trong suốt thời hạn. Mặt khác ở nước ta vừa thoát ra khỏi lạm phát thì lại phát hành các công cụ tài chính dài hạn chúng chưa có tính khả thi vì nhân dân còn nghi ngại lạm phát có thể hoành hành trở lại.
1.3. Khả năng chuyển đổi (độ linh động - tính lỏng)
Tính linh động của một tài sản phản ánh khả năng và mức độ thuận tiện để chuyển tài sản đó thành tiền.
Với các công cụ tài chính lỏng của mỗi loại là khác nhau. Trên thị trường tài chính người ta dễ dàng. Khi quyết định mua một trái phiếu của chính phủ và băn khoăn khi quyết định mua một lô cổ phiếu của một công ty nào đó. Lý do là vì với trái phiếu chính phủ khoản lợi họ nhìn thấy rõ ràng hơn so với cổ phiếu bởi vì trong thương trường có sự giám chắc rằng năm nay công ty đó làm ai đó lãi hay không.
Tính lỏng của công cụ tài chính còn thể hiện ở chỗ thị trường của công cụ đó có lớn hay không? Hoạt động có nhộn nhịp hay không? Nếu có thì chúng ta dễ dàng bán công cụ trong tay người khác trên thị trường rộng lớn đó đang có nhu cầu cần loại công cụ này. Và với một nhà đầu tư, có những lúc họ cần chuyển một số công cụ mà họ nắm giữ sang tiền để lo liệu một công việc đang cần thiết mặc dầu trái khoán của họ đang sinh lợi.
Lãi suất
i%
Db’
Db
E2
E1
i1
Sb
i2
Số lượng trái khoán
Q2
Q1
0
Để xử lý những trường hợp như thế rõ ràng là các trái khoán trong tay họ phải có “tính lỏng” do vậy sẽ được ưa thích hơn.
Và cái giá phải trả cho sự ưa thích của họ là họ sẽ nhận đ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top