Download miễn phí Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa của công ty TNHH Lam Sơn- Sao Vàng





Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là vấn đề rất quan trọng quyết định đến hiệu quả của cơ sở sản xuất. Tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả không đơn giản là bán hết số hàng với giá cả hợp lý mà còn đòi hỏi thời gian bán ra ngắn nhất, lượng tiền thu về nhanh nhất.
Sữa bò tươi là một trong những sản phẩm nông nghiệp dễ bị hư hỏng nên đòi hỏi khá nghiêm ngặt về thời giam tiêu thụ, sơ chế, bảo quản. Chính vì vậy, việc tiêu thụ sữa tươi là một trong những khâu quan trọng của quá trình chăn nuôi bò sữa. Nó là mắt xích cuối cùng quyết định hiệu quả của ngành, việc tiêu thụ sản phẩm này đòi hỏi phải nhanh chóng với những phương tiện chuyên chở, bảo quản thích ứng. Nói cách khác việc tiêu thụ sữa tươi đòi hỏi phải lựa chọn được những kênh tiêu thụ phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất của ngành. Thực tế ngành chăn nuôi gia súc đặc biệt là gia súc lấy sữa đã trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp của nhiều nước trên thế giới nhất là các nước kinh tế phát triển như Châu Âu, Châu Mỹ. Theo thống kê của Bộ nông nghiệp Mỹ cho thấy sản lượng sữa tươi trên thế giới tang nhanh trong những năm 2003- 2004.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

n khích người chăn nuôi tổ chức giống bò ngoại, lai tạo đàn bò sữa, xây dựng nhà máy chế biến sữa... Đến nay, công ty đã có đàn bò sữa và bê sữa thuần trên 1.800 con, trong đó có 1.000 con đang có chửa lứa thứ 2 và 3. Ngoài ra tại các huyện tham gia dự án cũng đã lai tạo được hơn 725 con bò và bê lai hướng sữa, trong đó Thọ Xuân có 380 con, huyện Thiệu Hoá có 125 con, Hoằng Hoá 130 con... đưa tổng đàn bò sữa, bê sữa lên 2.525 con (tăng gấp đôi so với năm 2003). Riêng tại điểm nuôi tập trung Sao Vàng có gần 1.400 con bò và bê sữa thuần ngoại, trong đó có gần 1.000 con đang cho sữa, công ty đã đầu tư trên 10 tỷ đồng lắp đặt giàn vắt sữa tự động 40 con/ lượt cùng các thiết bị, phương tiện chứa sữa, chế biến thức ăn thô dự trữ... Công ty cũng đang khẩn trương hoàn thiện nhà máy chế biến sữa công suất 12.000 tấn/ năm tại khu công nghiệp Lỗ Môn để đưa vào hoạt động trong quý I - 2005. Năm 2003, công ty TNHH Lam Sơn- Sao Vàng đã có tổng đàn bò sữa là 1.351 con trong đó có 928 con bò cái sinh sản. Tổng lượng sữa tươi sản xuất ra cho công nghiệp chế biến sữa là 2.073 tấn/ năm
Biểu 3: Quy mô đàn bò công ty TNHH Lam Sơn- Sao Vàng năm 2003
Chỉ tiêu
Đơn vị
Đầu con
Tỷ lệ (%)
Tổng đàn bò sữa
+ Cái sinh sản
con
con
1.351
928
100
68,7
Sản lượng sữa tươi
tấn/ năm
2.073
Nguồn: Đoàn thiết kế - khảo sát - quy hoạch nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá
2.2. Sản lượng sữa hàng năm của công ty
Cùng với sự phát triển của đàn bò sữa thì sản lượng sữa hàng năm của công ty sản xuất ra cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn biểu hiện qua biểu số
Biểu 4: Sản lượng sữa hàng năm
Đơn vị: tấn
Năm
2003
2004
Sản lượng sữa tươi
2.073
3.928
Nguồn: Đoàn TK- KS - QH nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá.
Như vậy, lượng sữa của công ty mới chỉ đáp ứng 1/3 công suất của nhà máy chế biến sữa. Do vậy, công ty cần phát triển nhanh đàn bò sữa cả về quy mô và chất lượng để đáp ứng nhu cầu về sữa nguyên liệu cho nhà máy chế biến sữa tránh tình trạng nhà máy chế biến sữa phải ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu sữa tươi để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
2.3. Tình hình thâm canh chăn nuôi bò sữa ở công ty
2.3.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho chăn nuôi bò sữa của công ty
a. Con giống
Năng lực sản xuất của đàn bò sữa không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc nhiều vào cơ cấu giống đàn bò. Đàn cái sinh sản càng nhiều thì khả năg cho sữa càng lớn. Tuy nhiên, để tái sản xuất đàn một cách chủ động thì nhóm bò hậu bị và bê hướng sữa cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Do đó, tuỳ theo yêu cầu mở rộng quy mô đàn mà có tỷ lệ thích ứng giữa các nhóm bò trong đàn. Hiện nay, có rất nhiều giống bò cao sản như: bò lai trắng đen Hà Lan (Holsin Friesian - HF) các nước thường dùng bò này để lai tạo vớibò địa phương để tạo ra các con lai F1, F2. Đặc điểm của bò HF là bò đưac giống tố nặng đến 1 tấn, bò cái nặng 450- 600 kg, bê sơ sinh cân nặng 35- 40 kg. Bò Jersey, bò nâu Thuỵ Sỹ (Brown Swiss), bò Zebu giống Red Sindhi, giống bò địa phương (là giống bò vàng Việt Nam). Để đạt được năng suất sữa là thịt cao đồng thời với khả năng thích nghi tốt ở Việt Nam cần có các bò lai hướng sữa như bò lai Hà Lan F1, F2, F3. Hiện tại Thanh Hoá có 233.358 con trong đó có 63.007 con là bò lai Zebu ở các tỷ lệ máu khác nhau (chiếm 27%), trong đó bò lai này có 40% là bò cái sinh sản (25.203 con). Tuy nhiên sự phân bố số lượng đàn bò cũng như tỷ lệ bò lai Zevu này ở các vùng, các huyện là không đều.
Biểu 5: Số lượng bò giống của tỉnh Thanh Hoá
Đơn vị: con
Hạng mục
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Nhập bò cái sữa
200
300
500
Đàn bò địa phương
5.400
2.000
3.000
Nguồn: Đoàn thiết kế - khảo sát - quy hoạch nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá
Số lượng bò này tỉnh Thanh Hoá nhập để bán cho nhân dân nuôi nhăm cung cấp lượng sữa tươi và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng toàn tỉnh.
Để tăng nhanh lượng sữa tươi có chất lượng cao và năng suất cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng toàn tỉnh, công ty TNHH Lam Sơn- Sao Vang đã nhập 928 con bò cái giống sinh sản có chửa trung bình 5- 6 tháng, con giống Hà Lan thuần chủng của Newzilan để về gây giống tại công ty (năm 2003). Trong thời gian nuôi tân đáo đến năm 2004 ta thấy đã loại thải 9 con và chết 9 con bò cái sinh sản, do đó còn 909 con bò cái sinh sản thuần và đẻ ra được 418 con bê cái 0- 6 tháng tuổi. Đến cuối kỳ ta có 1.524 con bò sữa giống Hà Lan thuần chủng. Như vậy, theo số liệu trên thì công ty đã nhập một lượng bò giống thuần Hà Lan với khối lượng lớn để lai tạo con giống và nhằm tạo ra các con lai F1, F2, F3 của HF với bò lai sind nhằm tạo ra đàn bò có năng suất cao và cung cấp con giống cho nhân dân trong tỉnh nhằm mục tiêu tạo ra đang bò có năng suất cao và chất lượng tốt, khả năng thích nghi tốt.
2.3.2. Sản xuất thức ăn và chế biến thức ăn
a. Thức ăn thô: là thức ăn có khối lượng lớn nhưng hàm lượng chất dinh dướng trong 1 kg thức ăn nhỏ. Hàm lượng chất xơ thô lớn hơn 18% (theo chất khô) trong thức ăn thô, người ta lại phân thanh các nhóm nhỏ là thức ăn xanh, thức ăn ủ tươi, thức ăn củ quả, phụ phế phẩm nông công nghiệp và thức ăn thô khô (như rơm, rạ).
* Thức ăn xanh: bao gồm các loại cỏ xanh, thân là cây còn xanh kể cả một số loại rau xanh và cỏ của những quả nhiều nước... Thức ăn xanh có nhiều nước, dễ tiêu hoá có tác dụng nâng cao sản lượng sữa rõ rệt, các chất dinh dưỡng trong thức ăn xanh có tỷ lệ cân đối, tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng cao, chữa nhiều vitamin, có tính ngon miệng gia súc thích ăn; protein và vitamin trong thức ăn xanh có chất lượng cao hơn thức ăn tinh; có chữa một số chất kích thích sinh trưởng, sinh sản và khả năng tiết sữa. Nếu khẩu phần thức ăn xanh cho bò sữa thiếu cỏ xanh sẽ ảnh hưỡngấu đến hoạt động của buồng tứng đến khả năng thụ thai. Điều này chứng tỏ thức ăn xanh rất quan trọng đối với bò sữa đặc biệt là bò đang tiết sữa. Yêu cầu chất khô của thức ăn xanh không thấp hơn 1% khối lượng cơ thể. Cỏ tự nhiên, cỏ trồng, ngọn mía, đọt thơm, vỏ thơm, rau lang, rau muống... là thức ăn xanh đang được sử dụng rộng rãi để nuôi bò sữa hiện nay.
Thức ăn xanh bao gồm cỏ tự nhiên, cá voi và cỏ sả, cỏ họ đậu, vỏ thơm, đọt thơm (quả dứa), ngọn mía. Đây là loại thức ăn chính, ngoài ra một số thức ăn khác như rơm tươi, các loại rau xanh như bắp cải, rau lang, rau muống là nguồn thức ăn có giá trị được sử dụng khá rộng rãi để nuôi bò sữa thay thế một phần cỏ xanh trong những lúc khan hiếm.
* Thức ăn ủ tươi: thức ăn ủ tươi là thức ăn xanh vào hố nén chặt, bịt kín sau một thời gian nhờ quá trình sinh hoá và dưới tác dụng của vi sinh vật thức ăn lên men có vị chua (do sù hinh thành các axit hữu cơ) giúp bảo tồn thức ăn trong thời gian dài.
* Thức ăn củ quả: một số loại củ như khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải... một số loại quả như bầu, bí đao, dưa leo... là loại thức ăn rất tốt cho bò sữa.
* Rơm rạ: rơm lúa sau khi thu hoạch được phươi khô dự trữ là nguồn thức ăn thô khô quanh năm cho bò sữa.
* Phụ phế phẩm công nghiệp: hòm bia (của nhà máy bia Thanh Hoá), xác đ...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top