Download miễn phí Cương dương vật kéo dài thể động mạch: kinh nghiệm xử trí của bệnh viện bình dân





Có 2 bệnh nhân (24 tuổi và 34 tuổi) tự khỏi sau thời gian theodõi tương ứng
là 3 và 4 tuần.
Có 2 bệnh nhân (21 tuổi và 26 tuổi) sau thời gian theodõi tương ứng 10 và
12 tuần, DV vẫn cương mềm, không đau. Do đó, hai bệnh nhân này được
phẫu thuật mở thểhang phải tìm túi phình giả ở gốc DV, cột động mạch thể
hang phải (hình 3 và 4). Kết quả cả hai bệnh nhân này đều có thể cương rất
tốt khi có kích thích tình dục sau thời gian theodõi sau mổ tương ứng là 2
tháng và 5 tháng.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

CƯƠNG DƯƠNG VẬT KÉO DÀI THỂ ĐỘNG MẠCH: KINH
NGHIỆM XỬ TRÍ CỦA BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
TÓM TẮ T
Mở đầu - Mục tiêu: Cương dương vật kéo dài thể động mạch do chấn
thương là một bệnh lý hiếm gặp, do đó, xử trí còn chưa qui chuẩn. Chúng tui
báo cáo kinh nghiệm xử trí các trường hợp cương dương vật kéo dài thể động
mạch đã gặp tại Bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các trường hợp cương dương vật
kéo dài thể động mạch sau chấn thương đã được điều trị tại bệnh viện Bình
Dân cho tới tháng 8 năm 2009. Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Có bốn trường hợp cương dương vật kéo dài thể động mạch đều do
tổn thương động mạch thể hang phải ở gốc dương vật. Bệnh tự khỏi ở hai
trường hợp sau (3 và 4 tuần sau chấn thương). Hai bệnh nhân đầu tiên được mổ
mở thắt đường dò động mạch hang – xoang hang sau chấn thương lần lượt là
10 tuần và 12 tuần. Chức năng cương của hai bệnh nhân này đều rất tốt sau mổ
2 tháng và 5 tháng.
Kết luận: Cương dương vật kéo dài thể động mạch sau chấn thương có thể tự
khỏi. Đối với những trường hợp cương dương vật kéo dài diễn tiến trên 2
tháng, mổ thắt đường dò có thể giúp bảo tồn chức năng cương.
Từ khóa: Cương dương vật kéo dài do tăng dòng máu động mạch
ABSTRACT
ARTERIAL PRIAPISM: BINH DAN HOSPITAL’S EXPERIENCE
Nguyen Thanh Nhu, Hoang Danh Tan, Mai Ba Tien Dung, Nguyen Ho Vinh
Phuoc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 1 - 2010: 33 –
37
Background - Objective: Traumatic arterial priapism is a rare disease,
therefore, the management has not been standardised. We reported our
experience in management of arterial priapism seen at Binh Dan hospital.
Materials and Methods: All cases of arterial priapism admitted at Binh Dan
hospital until August 2009. A cross-sectional descriptive retrospective study.
Results: Four patients presented arterial priapism due to damage of the right
cavernous artery at the penile root. The last two patients presented a
spontaneous resolution 3 weeks and 1 month after the trauma, respectively. The
other two patients underwent open surgery for fistula ligation as the
tumescence lasting 10 weeks and 12 weeks, respectively. Very good erection
returned 2 months and 5 months after the surgery for the first and second
patients, respectively.
Conclusions: Spontaneous resolution can happen in arterial priapism. For long
lasting cases, fistula ligation can Giúp to restore erection.
Keyword: arterial priapism
MỞ ĐẦU
Cương dương vật kéo dài (CDVKD) xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa sự
cấp máu động mạch tới dương vật và sự dẫn lưu máu tĩnh mạch(Error! Reference
source not found.). Cương dương vật kéo dài do tăng dòng
máu động mạch đến được xếp vào nhóm CDVKD
thể động mạch, còn gọi là thể dòng máu tăng (high-
flow), hay thể không thiếu máu cục bộ (non-
ischemic), và là một bệnh lý rất hiếm gặp(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.). Trong các y văn tiếng Anh hiện ghi nhận không quá 70
trường hợp CDVKD thể động mạch(Error! Reference source not found.).
Mục tiêu: chúng tui báo cáo kinh nghiệm điều trị CDVKD thể động mạch
tại bệnh viện Bình Dân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hình
1:Túi
phình
giảthể
hang
phải
trên
MSCT.
Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang. Các bệnh nhân (BN) đến khám và điều trị tại
bệnh viện Bình Dân do CDVKD thể động mạch sau chấn thương vùng chậu,
cho tới tháng 8 năm 2009. BN được siêu âm Doppler mạch máu dương vật
(DV), chụp động mạch hang chọn lọc (nếu có chỉ định), chụp cắt lớp điện
toán đa lát (multislide computed tomography, MSCT 16) mạch máu DV.
Phẫu thuật cột động mạch hang bị tổn thương nếu cần. Bệnh nhận tự đánh
giá chức năng cương sau điều trị với ba tiêu chuẩn: rất tốt (cương cứng như
trước khi bị tai nạn), tốt (cương không cứng lắm hay giao hợp còn khó
khăn), không tốt (không cương cứng được), sau phẫu thuật 1 tuần và mỗi
tháng tiếp theo.
KẾT QUẢ
Tính đến tháng 8 năm 2009, có 4 bệnh nhân CDVKD thể động mạch sau
chấn thương đến khám và điều trị tại bệnh viện Bình Dân. Tất cả bốn BN
đều là nam giới trẻ (21 tuổi, 26 tuổi, 24 tuổi và 34 tuổi), đều có cơ chế chấn
thương tương tự nhau là té kiểu ngồi ngựa dập hội âm xuống vật cứng.
Sau tai nạn, các BN sinh hoạt bình thường nhưng, 24-48 giờ sau tai nạn, DV
luôn trong trạng thái cương mềm, không đau, không thể cương cứng đủ để
giao hợp. Khám lâm sàng cả bốn trường hợp chỉ ghi nhận DV luôn cương
không cứng và sờ được nhân xơ ở gốc thể hang phải.
Siêu âm Doppler DV trên bốn BN đều phát hiện túi phình giả thể hang phải.
Có một bệnh nhân nghi ngờ thông động- tĩnh mạch thể hang trái, nhưng
MSCT (hình 1) và chụp động mạch DV chọn lọc (hình 2) chỉ ghi nhận túi
phình giả trong thể hang phải.
Có 2 bệnh nhân (24 tuổi và 34 tuổi) tự khỏi sau thời gian theo dõi tương ứng
là 3 và 4 tuần.
Có 2 bệnh nhân (21 tuổi và 26 tuổi) sau thời gian theo dõi tương ứng 10 và
12 tuần, DV vẫn cương mềm, không đau. Do đó, hai bệnh nhân này được
phẫu thuật mở thể hang phải tìm túi phình giả ở gốc DV, cột động mạch thể
hang phải (hình 3 và 4). Kết quả cả hai bệnh nhân này đều có thể cương rất
tốt khi có kích thích tình dục sau thời gian theo dõi sau mổ tương ứng là 2
tháng và 5 tháng.
BÀN LUẬN
Chẩn đoán
Theo Pryor(Error! Reference source not found.), CDVKD có ba thể: (1) thể tĩnh mạch,
hay dòng máu giảm hay thể thiếu máu cục bộ (ischemic), (2) thể động mạch,
hay thể dòng máu tăng hay thể không thiếu máu cục bộ (non-ischemic), và
(3) thể tái phát. Trong đó, thể động mạch là thể rất hiếm gặp. DV thường
cương không hoàn toàn, không đau, kéo dài. Chẩn đoán phân biệt giữa thể
dòng máu tăng và thể dòng máu giảm dựa trên phân tích khí máu thể hang,
siêu âm màu Doppler và chụp X quang thể hang (cavernosography), trong
khi chụp động mạch thẹn trong dành để phát hiện các thương tổn của động
mạch thể hang và túi phình(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.).
Theo chúng tôi, dấu hiệu lâm sàng đủ để chẩn đoán phân biệt giữa hai thể
trên.
Chọc hút máu thể hang nếu thực hiện sẽ thấy máu đỏ bầm hay đen trong
CDVKD thể tĩnh mạch và máu đỏ tươi trong thể động mạch. Do vậy, phân
tích khí trong máu là không cần thiết.
Siêu âm màu Doppler giúp chẩn đoán được túi phình giả trong thể
hang(Error! Reference source not found.)(Error! Reference source not
found.)(Error! Reference source not found.). Ở bốn bệnh nhân trong
nghiên cứu, siêu âm đã ghi nhận hình ảnh có một túi phình giả bên phải.
Như vậy, khả năng phát hiện của siêu âm trong CDVKD thể động mạch
trong nghiên cứu là 100%. Siêu âm không chỉ giúp xác định có tổn thương
mà còn giúp định vị trí và số lượng của thương tổn. Tuy nhiên, trên bệnh
nhân 21 tuổi, siêu âm Doppler DV có hình ảnh giả của túi phình bên thể
hang trái, đưa tới gợi ý bệnh nhân bị tổn thương cả hai động mạch thể hang,
nhưng thực tế chỉ có động mạch thể hang phải bị tổn thương. Do đó, siêu âm
có thể cho hình ảnh dương tính giả, không nên chỉ dựa đơn thuần vào siêu
âm Doppler DV để chẩn đoán xác định tổn thương.
Bảng 1: Phân biệt hai thể CDVKD dựa trên triệu chứng lâm s
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top