thattinh_2038x

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Bệnh sùi cành chè Bacterium sp





Bệnh sùi cành chè là một loại bệnh có tính chất truyền nhiễm ký sinh. Những kết quả nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước đều kết luận: bệnh sùi cành chè do vi khuẩn Bacterium gorlencoviannum gây ra. Vi khuẩn có dạng hình gậy, khuẩn lạc màu trắng kem, láng bong, nhuộm gram âm. Vi khuẩn không tạo indol, không khử nitrat, không thủy phân tinh bột, tạo H2S . Vi khuẩn có thể tạo ra axit nhưng không tạo khí trên môi trường có gluco và saccaro. Vi khuẩn xâm nhập vào cây, vào mô cây qua vết thương. Thời kỳ tiềm dục của bệnh trên cành non là 20 – 25 ngày, trên cành già 30-45 ngày.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Bệnh sùi cành chè
Bacterium sp
I Lịch sử nghiên cứu, phân bố địa lý và tác hại của Bacterium
1 Lịch sử nghiên cứu
1.1 Khái quát chung về vi khuẩn
Vi khuẩn (tiếng Anh và tiếng La Tinh là bacterium, số nhiều bacteria) đôi khi còn được gọi là vi trùng, nó thuộc loại ký sinh trùng. Vi khuẩn là một nhóm sinh vật đơn bào, có kích thước nhỏ (kích thước hiển vi) và thường có cấu trúc tế bào đơn giản không có nhân, bộ khung tế bào (cytoskeleton) và các bào quan như ty thể và lục lạp. Cấu trúc tế bào của vi khuẩn được miêu tả chi tiết trong mục sinh vật nhân sơ vì vi khuẩn là sinh vật nhân sơ, khác với các sinh vật có cấu trúc tế bào phức tạp hơn gọi là sinh vật nhân chuẩn.
Vi khuẩn là nhóm hiện diện đông đảo nhất trong sinh giới. Chúng hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật khác. Nhiều tác nhân gây bệnh (pathogen) là vi khuẩn. Hầu hết vi khuẩn có kích thước nhỏ, thường chỉ khoảng 0.5-5.0 μm, mặc dù có loài có đường kính đến 0,3mm (Thiomargarita). Chúng thường có vách tế bào, như ở tế bào thực vật và nấm, nhưng với thành phần cấu tạo rất khác biệt (peptidoglycan). Nhiều vi khuẩn di chuyển bằng tiên mao (flagellum) có cấu trúc khác với tiên mao của các nhóm khác.
Đầiên được quan sát bởi Antony van Leeuwenhoek năm 1683 bằng kính hiển vi một tròng do ông tự thiết kế. Tên "vi khuẩn" được đề nghị sau đó khá lâu bởi Christian Gottfried Ehrenberg vào năm 1828, xuất phát từ chữ βακτηριον trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "cái que nhỏ". Louis Pasteur (1822-1895) và Robert Koch (1843-1910) miêu tả vai trò của vi khuẩn là các thể mang và gây ra bệnh hay tác nhân gây bệnh.
Ban đầu vi khuẩn hay vi trùng (microbe) được coi là các loại nấm có kích thước hiển vi (gọi là schizomycetes), ngoại trừ các loại vi khuẩn lam (cyanobacteria) quang hợp, được coi là một nhóm tảo (gọi là cyanophyta hay tảo lam). Phải đến khi có những nghiên cứu về cấu trúc tế bào thì vi khuẩn mới được nhìn nhận là một nhóm riêng khác với các sinh vật khác. Vào năm 1956 Hebert Copeland phân chúng vào một giới (kingdom) riêng là Mychota, sau đó được đổi tên thành Sinh vật khởi sinh (Monera), Sinh vật nhân sơ (Prokaryota), hay Vi khuẩn (Bacteria). Trong thập niên 1960, khái niệm này được xem xét lại và vi khuẩn (bây giờ gồm cả cyanbacteria) được xem như là một trong hai nhóm chính của sinh giới, cùng với sinh vật nhân chuẩn. Sinh vật nhân chuẩn được đa số đánh giá là đã tiến hóa từ vi khuẩn, và sau đó cho rằng từ một nhóm vi khuẩn hợp lại.
Sự ra đời của phân loại học phân tử đã làm lung lay quan điểm này. Năm 1977, Carl Woese chia sinh vật nhân sơ thành 2 nhóm dựa trên trình tự 16S rRNA, gọi là vực Vi khuẩn chính thức (Eubacteria) và Vi khuẩn cổ Archaebacteria. Ông lý luận rằng hai nhóm này, cùng với sinh vật nhân chuẩn, tiến hóa độc lập với nhau và vào năm 1990 nhấn mạnh thêm quan điểm này bằng cách đưa ra hệ phân loại 3 vực (three-domain system), bao gồm Vi khuẩn (Bacteria), Vi khuẩn cổ (Archaea) và Sinh vật nhân chuẩn (Eucarya). Quan điểm này được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà sinh học phân tử nhưng cũng bị chỉ trích một một số khác, cho rằng ông đã quan trọng hóa vài khác biệt di truyền và rằng cả vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn có lẽ đều phát triển từ vi khuẩn chính thức.
1.2 Sự phân lập và đa dạng sinh học của vi khuẩn endophytes
Để tự bảo vệ mình trước những tác động của môi trường, Endophytic bacteria tạo thành những ổ vi khuẩn ,xâm chiếm và ký sinh trên đốt cây . Những vi khuẩn này thường xâm chiếm vào vùng không gian ở giữa các tế bào, và chúng có thể được phân lập từ tất cả các bộ phận của cây, bao gồm cả hạt giống (Posada & Vega, 2005). Endophytic bacteria được phân lập từ cây một lá mầm tới cây hai lá mầm, từ những loài cây thân gỗ, như gỗ sồi và lê, cây thân thảo tới cây lương thực như củ cải đường và ngô. Những nghiên cứu cổ điển về sự đa dạng của Endophytic bacteria tập trung vào phương pháp phân lập chúng từ các mô nội sinh sau khi khử trùng bề mặt thực vật với hypochlorite natri hay các hóa chất tương tự (Miche & Balandreau, 2001). Một nghiên cứu của et al Lodewyckx. (2002) nêu lên phương pháp phân lập và mô tả đặc điểm vi khuẩn endophytes từ các loài thực vật khác nhau. Dựa trên nền tảng nghiên cứu của Hallmann et al. (1997) và Lodewyckx et al. (2002),Rosenblueth & Martinez-Romero (2006) và Berg & Hallmann (2006) đã công bố một danh sách toàn diện của Endophytic bacteria được phân lập từ một loạt  các bộ phận của cây.
Một nghiên cứu gần đây của al Porteous-Moore và cộng sự. (2006) mô tả sự đa dạng của Endophytic bacteria tìm thấy trong cây Dương, tăng trưởng tại môi trường phytoremediation nhiễm toluene, với mục đích xác định các chủng tiềm năng để tăng cường phytoremediation toluene, Ethylbenzene, và hợp chất xylen (BTEX). Theo mô tả của nghiên cứu trên, Endophytic bacteria được phân lập từ hai giống Dương. Sau khi phân lập, tiến hành phân tích, so sánh trình tự của đoạn mồi 16S RNA, BOX-PCR của DNA,các trình tự mang đặc tính sinh lý, liên quan đến chất sử dụng, thuốc kháng sinh và kim loại nặng nhạy cảm. Nghiên cứu này và một nghiên cứu của Germaine et al. (2004, 2006) đã chứng minh rằng trong các cộng đồng đa dạng vi khuẩn tìm thấy trong cây Dương, một số chủng Endophytic có mặt và có tiềm năng để tăng cường các chất hữu cơ dễ bay hơi phytoremediation và thuốc diệt cỏ.Công trình nghiên cứu gần đây của Frank et al. (2006) là dùng kỹ thuật  sinh học phân tử trong việc phân lập, tìm hiểu các đặc tính của Endophytic bacteria và ứng dụng  trong cộng đồng.Các chủng Endophytic sinh sống trên thân cây, rễ, củ…đã được phân tích và nhận diện bằng cách chạy RFLP với đoạn mồi là 16S rRNA. Năm đơn vị phân loại triển vọng nhất và khả năng tồn tại được xác định là Cellulomonas, Clavibacter, Curtobacterium, Pseudomonas và Microbacterium được tìm ra thông qua trình tự gen 16S rRNA, acid béo và sử dụng nguồn phân tích carbon (Elvira-Recuenco & van Vuurde, 2000; Zinniel et al, 2002)…
Việc nuôi cấy dựa trên môi trường nuôi cấy cơ bản và môi trường nuôi cấy độc lập thật sự rất hữu ích. Reiter & Sessitsch (2006) đã điều tra sự hiện diện và phân loại Endophytic bacteria ở các bộ phận khí sinh hoàn toàn trên cây nghệ (cây nghệ albiflorus). Kết quả của họ cho thấy rằng tương tự như ở các loài thực vật khác, cây nghệ là một ký chủ cho cộng đồng Endophytic bacteria sinh trưởng và phát triển, tuy nhiên cũng có loài chưa được biết đến. Các bước tiến hành thí nghiệm bao gồm ly trích, phân lập, nuôi cấy và nhận diện Endophytic bacteria bằng kỹ thuật in dấu DNA với đoạn mồi 16S rRNA. Kết quả chỉ ra rằng một số nhóm mới xuất hiện góp phần vào tính đa dạng của Endophytic bacteria, chủ yếu là Gammaproteobacteria and Firmicutes , chúng sống nội sinh trên cây nghệ.Thành phần, phân loại các nhóm Endophytic bacteria đa dạng và có sự khác nhau là do sự đa dạng của gen 16S rRNA trong thư viện gen. Chỉ có ba nhóm vi khuẩn được tìm thấy trong môi trường nuôi cấy, trong đó có 17 loại đại diện. Trong khi sáu nhóm được xác định trong phân tích thư viện gen bao gồm 38 loại. Nhóm nổi bật tìm thấy trong môi trường nuôi cấy là nhóm Gram dương, có tỷ lệ G+C thấp.Trong khi ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top