tctuvan

New Member
Tải miễn phí cho các bạn




MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

MỤC LỤC 2

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG 4

I. KHÁI NIỆM VIỄN THÔNG 4

II. LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TỔNG ĐÀI 5

III. CHỨC NĂNG CÁC KHỐI TRONG TỔNG ĐÀI 5

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TỔNG ĐÀI ĐIỆN TỬ SPC. 7

I. GIỚI THIỆU CHUNG. 7

II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỔNG ĐÀI ĐIỆN TỬ SPC 8

2.1 Một số ưu điểm của tổng đài SPC: 9

2.2. Phân loại tổng đài: 10

2.3. Nguyên lý hoạt động của tổng đài: 11

III. SƠ ĐỒ CỦA TỔNG ĐÀI SPC 12

3.1 Chức năng các khối 12

3.2. Nhiệm vụ chung của một tổng đài: 19

IV.KỸ THUẬT CHUYỂN MẠCH SỐ 23

4.1. Giới thiệu chung về chuyển mạch số: 23

4.2. Đặc điểm của chuyển mạch số 24

4.3.Chuyển mạch không gian 24

4.4. Chuyển mạch thời gian (T) 26

4.4.1. Chuyển mạch thời gian điều khiển đầu vào 26

4.4.2. Chuyển mạch thời gian điều khiển đầu ra 28

4.4.3. Chuyển mạch số kết hợp 30

V. XỬ LÝ GỌI 37

5.1. Phân tích một cuộc gọi. 37

5.2. Các chương trình xử lý gọi trong tổng đài SPC 41

5.3. Số liệu thuê bao: 45

5.4. Phân tích phiên dịch và tạo tuyến 46

VI. HỆ THỐNG BÁO HIỆU TRONG TỔNG ĐÀI 51

6.1. Giới thiệu chung 51

6.2. Các loại báo hiệu trong tổng đài 52

6.2.1. Báo hiệu đường thuê bao 52

6.2.2. Báo hiệu liên tổng đài( trung kế) 53

6.3. Các phương pháp truyền báo hiệu 57

6.4. Hệ tống báo hiệu kênh chung số 7(SS7) 58

CHƯƠNG III: MẠNG ĐIỆN THOẠI 62

I.SƠ LƯỢC MẠNG ĐIỆN THOẠI 62

II. CÁC THÔNG TIN BÁO HIỆU TRONG ĐIỆN THOẠI 63

2.1 Tổng quan 63

2.2 Phân loại thông tin báo hiệu 63

2.3. Báo hiệu trên đường dây thuê bao 64

2.4. Hệ thống âm hiệu tổng đài 65

CHƯƠNG IV : TỔNG QUAN VỀ MÁY ĐIỆN THOẠI 67

I. NGUYÊN LÝ THÔNG TIN ĐIỆN THOẠI: 67

1.1. Sơ đồ: 67

1.2. Nguyên lý hoạt động: 68

II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ MÁY ĐIỆN THOẠI 68

III. NHỮNG CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA MÁY ĐIỆN THOẠI 69

IV. PHÂN LOẠI MÁY ĐIỆN THOẠI 69

4.1. Chức năng: 69

4.2. Phân loại: 70

V. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG MẠCH ĐIỆN CHO MỘT MÁY ĐIỆN THOẠI: 72

5.1. Phương pháp hở mạch: 72

5.2. Phương pháp chập mạch: 72

CHƯƠNG V: TỔNG ĐÀI PANASONIC KX-TES 824 73

I.Tổng quan về tổng đài KX-TES 824 73

1.1. Thông số kỹ thuật 74

1.2.Các loại card mở cho TES 824 74

1.3. Dung lượng hệ thống 75

1.4. Các cấu hình có thể nâng cấp tổng đài Panasonic KX-TES824: 75

1.5. chức năng cơ bản của hệ thống KX-TES824 75

II. Hướng dẫn sử dụng TES824 77

III. Các bước lập trình tổng đài PANASONIC KX-TES 824 80





Tóm tắt tài liệu

Đề tài Tổng đài Panasonic KX-TES824
ố thiết bị(EN_Equipment number). Chỉ số này cần được dịch sang số thư mục của thuê bao(DN_Directtory number). Do đó, cần dùng các bảng dịch. Trong tổng đài SPC, chúng được giữ trong các bộ nhớ máy tính. Hệ thống điều khiển cũng cần nhận dạng thuê bao vì: Thuê bao cần trả cước cho cuộc gọi. cần tiến hành kiểm tra xem thuê bao có được phép gọi đường dài hay không. Thông tin cần thiết được lưu giữ trong các record mô tả chủng loại dịch vụ của thuê bao. 5.1.3. Sự phân phối bộ nhớ và các thiết bị dùng chung. Khi tổng đài nhận một tín hiệu truy cập(off-hook signal), hệ thống điều khiển phải phân phối thiết bị dùng chung cho cuộc gọi và cung cấp đường dẫn cho nó bắt đầu từ đường dây gọi, hình thành nên một nhóm các thiết bị chiếm dụng lâu, thiết bị này cần thiết trong suốt cuộc gọi và loại thiết bị sử dụng ngắn hạn chỉ cần trong giai đoạn thiết lập cuộc gọi mà thôi.Trong các tổng đài tương tự, cầu truyền dẫn phân tách đường tiếng mang tín hiệu xoay chiều với thành phần một chiều xuyên qua tổng đài là một ví dụ về loại thứ nhất. Trong các tổng đài SPC nó là record của cuộc gọi, là vùng nhớ bị chiếm giữ trong suốt quá trình cuộc gọi. Loại thứ hai bao gồm bộ thu và lưu trữ các chữ số cấu thành địa chỉ thuê bao được gọi. Trong tổng đài SPC thì các chữ số này được lưu giữ trong bộ nhớ. 5.1.4. Các chữ số địa chỉ Sau khi nhận được âm hiệu mời quay số, thuê bao nhập vào các chữ số địa chỉ bằng cách quay số. Các chữ số đực gửi dưới dạng các tín hiệu đến tổng đài và được lưu giữ tại đó. Hoạt động báo hiệu là khía cạnh hết sức quan trọng trong hệ thống điện thoại. 5.1.5. Phân tích chữ số Hệ thống điều khiển phải phân tích các chữ số để xác định tuyến đi ra từ tổng đài cho cuộc gọi. Nếu cuộc gọi hướng đến thuê bao thuộc tổng đài nội bộ thì sẽ được định tuyến đến đườc dây thuê bao được gọi. Nếu đường dây đang làm việc với cuộc đàm thoại khác thì tồng đài sẽ gửi tín hiệu báo bận đến thuê bao gọi. Mặt khác nếu cuộc gọi hướng đến tổng đài ở xa nó có thể được phân phối đến bất cứ một mạch nào trên tuyến thích hợp đi ra khỏi tổng đài gốc. Nếu tất cả các mạch đều bận, tín hiệu bận cũng được gửi đến thuê bao gọi. Nếu có một mạch thích hợp đang rảnh, nó sẽ bắt lấy và không thể sử dụng cho bất kỳ cuộc gọi nào khác. Trong tổng đài cơ điện, việc chiếm giữ này tác động đến một điều kiện về mức điện áp đặt vào thiết bị kết cuối mạch và được xem như thao tác đánh dấu. Trong tổng đài SPC thì thông tin về mạch thường được lưu giữ trong các bảng dưới dạng phần mềm, trong trường hợp này mã chỉ định trong vùng dữ liệu cho trước chỉ ra trạng thái của một mạch. 5.1.6.Thiết lập đường dẫn chuyển mạch. Lúc này hệ thống điều khiển biết được các danh định của mạch nhập và mạch xuất, sau đó chọn đường dẫn giữa chúng thông qua chuyển mạch của tổng đài bằng các giải thuật chọn đường dẫn tổng đài thích hợp. Mỗi điểm chuyển mạch trên đường đã chọn được kiểm tra để đảm bảo rằng không trong trạng thái phục vụ cho cuộc gọi khác và chiếm lấy nó nếu rảnh. Trong các tổng đài SPC được thực hiện bằng cách dò và chèn các entry trong các bảng đã được sắp xếp. 5.1.7. Dòng chuông và âm hiệu chuông Một tín hiệu phải được gửi đến đầu ra xa để tiến hành cuộc gọi. Nếu thuê bao được gọi là cục bộ, điều này được thực hiện thông qua việc gửi dòng điện chuông đến kích hoạt chuông trong máy điện thoại được gọi. Nếu thuê bao không phải là cục bộ, một tín hiệu truy cập phải được gửi đến tổng đài kế tiếp nhằm kích hoạt nó tiến hành các thao tác riêng. Các thao tác này cũng tương tự như những thao tác trên, bao gồm cả các tín hiệu gửi lại tổng đài nguồn. Khi tất cả các kết nối đã được thiết lập cho phép cuộc gọi tiến hành trên mạng nội hạt hay mạng hợp nối hay mạng trung kế, dòng điện chuông được gửi đến thuê bao đầu xa và âm hiệu chuông được gửi đến thuê bao gọi. 5.1.8. Tín hiệu trả lời Một tín hiệu trả lời nhận được từ thuê bao đầu xa hay từ tổng đài khác, được nhận biết bởi hệ thống điều khiển của tổng đài cục bộ. Sự truyền phải được chấp thuận trên đường dẫn chuyển mạch đã chọn xuyên qua tổng đài. Dòng điện chuông và âm hiệu chuông phải được xoá trên đường dây thuê bao đầu xa và thuê bao gọi.sau đó hai phần này được nối với nhau và công việc tính cước cuộc gọi này với thuê bao gọi được khởi động. 5.1.9. Giám sát Trong khi cuộc gọi đang được tiến hành, công việc giám sát cũng được thực thi để tính cước và phát hiện tín hiệu xoá cuộc gọi. Công việc giám sát cũng thực hiện quét tất cả các dây kết cuối trên tổng đài để phát hiện tín hiệu truy cập của cuộc gọi mới. 5.1.10. Tín hiệu xoá kết nối Khi nhận tín hiệu xoá kết nối(được phát hiện bởi thuê bao gọi hay thuê bao được gọi), thiết bị tổng đài hay bộ nhớ được dùng trong kết nối phải được giải phóng và sẵn sàng sử dụng cho các cuộc gọi mới. 5.2. Các chương trình xử lý gọi trong tổng đài SPC Xử lý gọi trong tổng đài SPC được phần mềm thao tác điều khiển thực hiện. - Phát hiện sự bắt đầu của cuộc gọi - Xử lý và trao đổi thông tin báo hiệu - Xác lập tuyến nối qua trường chuyển mạch - Phiên dịch các chữ số địa chỉ - Tính cước - Giám sát cuộc gọi - Giải toả cuộc gọi Kết luân: Đó là các công việc và các giai đoạn cơ bản của quá trình xử lý gọi trong tổng đài SPC. Hình 17: Sơ đồ chương trình xử lý gọi 5.2.1. Các chương trình xử lý gọi: Ở một hệ thống tổng đài SPC nhiệm vụ xử lý gọi được hoàn thành chủ yếu nhờ phần mềm. Các thành phần của các chương trình xử lý được mô tả ở hình dưới. Chúng bao gồm: Bộ phối hợp chương trình, các chương trình dò thử trạng thái, các chương trình định liệu cuộc gọi, các chương trình điều khiển chuyển mạch ... và sử dụng các loại bảng số liệu cố định, bán cố định và tạm thời, các bộ đệm ghi phát, đệm trạng thái và các hàng nhớ. 5.2.2. Chương trình dò thử: Các biến cố báo hiệu xuất hiện trong mạng điện thoại được phát hiện nhờ các chương trình dò thử . Trạng thái của một số điểm thử ở các mạch điện thuê bao hay trung kế được xem xét đồng thời và đều đặn qua từng khoảng thời gian. Thực tế số lượng điểm thử này là 16 hay 32 được ghép với nhau và được thử đồng thời. Bộ điều khiển trung tâm so sánh kết quả dò thử giữa lần dò mới thực hiện và lần dò trước đó đã được lưu lại. Công việc so sánh này được thực hiện nhờ thuật toán và mạch điện logic. Nhờ công việc so sánh này mà bất kỳ sự thay đổi nào xảy ra giữa hai lần dò thử đều được phát hiện. 5.2.3. Chương trình tìm tuyến nối: Chương trình này dùng để tìm một tuyến đấu nối rỗi giữa một đầu vào và một đầu ra cho một cuộc gọi nội hạt hay là một tuyến rỗi giữa một đầu vào và một đầu ra của nhóm mạch trung kế đối với các cuộc gọi chuyển tiếp, gọi ra ... Cấu tạo của chương trình tìm tuyến phụ thuộc vào loại cấu trúc của trường chuyển mạch. Hiện nay quá trình tìm tuyến trong các hệ thống tổng đài SPC dựa vào quá trình tổng hợp phần mềm nhờ kỹ thuật nhớ họa đồ. Đây là một trong các chương tư liệu quan trọng. 5.2.4. Chương trình điều khiển chuyển mạch: Sau khi cuộc gọi đã được xác định, các chức năng phần cứng cần tác động tùy thuộc từng cuộc gọi cần được quyết định. Chương trình điều khiển chuyển mạch phát các lệnh cho thiết bị chuyển mạch tuyến nối qua thiết bị ngoại vi chuyển mạch. Nhờ các lệnh này mà tuyến nối cho các cuộc gọi được thiết lập qua trường chuyển mạch. 5.2.5. Hàng các cuộc gọi: Khi có một biến cố xuất hiện như thuê bao nâng tổ hợp, đặt tổ hợp hay chọn số, các biến cố đó được phân tích ngay và đặt vào một hàng tương ứng phù hợp với loại xử lý cần thiết. Bộ xử lý liên tục phát hiện các biến cố trong các chu trình dò thử. Khi đến lượt xử lý biến cố đó trong hàng, một chương trình thích hợp tách biến cố đó ra khỏi hàng, thực hiện các chức năng logic cần thiết liên quan tới nó và đặt kết quả vào một hàng khác có liên quan đến công việc sẽ phải giải quyết tiếp để lấy ra (nếu kết quả ở dạng lệnh thao tác) hay tiếp tục xử lý (nếu kết quả là số liệu cần xử lý tiếp). 5.2.6. Gián đoạn (Ngắt): Để xử dụng tối ưu các bộ xử lý, thời gian làm việc của nó được phân phối cho các công việc trên nhu cầu phù hợp với mức ưu tiên cho các công việc khác nhau. Nhờ vậy một việc cần thiết ở mức ưu tiên cao có thể thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào. Mức ưu tiên giữa các chương trình được thông qua các mức gián đoạn. việc phân chia các mức gián đoạn tuỳ từng trường hợp vào từng hệ thống tổng đài. Nói chung có 3 mức gián đoạn được sử dụng : - Mức đồng hồ: Mức này hoạt động theo chu kỳ cách nhau 10ms, nó được dùng cho các công việc có sự ràng buộc về thời gian ngặt cùng kiệt như thu các thông tin chọn số (các chữ số địa chỉ), phát hiện các biến cố báo hiệu, xử lý lỗi. - Mức xử lý gọi: Mức này làm việc khi các hàng xử lý gọi phù hợp được đưa vào để phân tích các số liệu chọn số thu được, xem xét số liệu thuê bao hay trung kế, xác định tuyến rỗi ... - Mức gốc: Mức này luôn luôn hoạt động và thực hiện các công việc ở mức ưu tiên thấp nhất như là một phần của chu trình chương trình. Nó phục vụ cho các công việc đòi hỏi ràng buộc về thời gian ít hơn như vào số cước thuê bao, thống kê lưu lượng ... Các loại bảng số liệu. Tất cả các số liệu liên quan tới cấu trúc phần cứng của hệ thống, các đặc tính của thuê bao, trạng thái đường dây thuê bao, thông tin về tạo tuyến và tính cước ... có thể được phân bổ theo ba kiểu. - Bảng số liệu cố định: Số liệu giống nhau đối với tất cả các tổng đài cùng loại. Nó hình thành một bộ phận logic hệ thống và chứa các số liệu về cấu trúc của tổng đài. - Bảng số liệu bán cố định: Số liệu bán cố định phụ thuộc các nhân tố ngoài như dung lượng tổng đài, các đặc tính thuê bao, thông tin tạo tuyến và tính cước, cách đấu nối giữa các phần khác nhau của trường chuyển mạch ... - Bảng số liệu tạm thời: Số liệu tạm thời liên quan tới từng cuộc gọi riêng và chứa trạng thái cuộc gọi, tuyến nối cho tín hiệu tiếng nói qua trường chuyển mạch, khoảng thời gian gọi ... Các chương trình xử lý gọi cần thông tin về các thuê bao ở một số giai đoạn xử lý gọi. Số liệu cần thiết được lấy ra từ các bảng số liệu tương ứng. Số liệu này cần được đáp ứng trong các trường hợp sau. + Giai đoạn trước lúc chọn số. + Giai đoạn chuyển thông tin địa chỉ. + Giai đoạn giải toả cuộc gọi. 5.3. Số liệu thuê bao: Sử dụng phần mềm cho phép ta tạo ra thuê bao nhiều đặc tính chi tiết hơn so với ở các hệ thống này chỉ có thông tin về đường dây thuê bao, bao gồm loại đường dây được phép khai thác hay loại nghiệp vụ ... có thể được chương trình hoá bằng cách đấu nối cứng. Ở các hệ thống chuyển mạch SPC có thể có khoảng 50 đến 100 bits nhớ số liệu cho mỗi thuê bao. Các bit số liệu này được ghi sẵn phục vụ cho phân loại thuê bao. Vậy có thể cung cấp cho nhiều dịch vụ mới. 5.3.1. Phân loại số kiệu thuê bao: Số liệu thuê bao được chia thành hai loại: + Số liệu mô tả các đặc tính của đường thuê bao. + Số liệu mô tả các nghiệp vụ cung cấp thuê bao. 5.3.2. Các số liệu thuê bao: Các số liệu này liên quan tới các đặc tính của đường dây thuê bao, bao gồm: - Số liệu tương ứng giữa địa chỉ thiết bị đường dây thuê bao (LEN: Line equiment number) và địa chỉ danh bạ của nó DN (directory number). - Số liệu xác định các đặc tính của mỗi thuê bao như đường dây đang được phép khai thác hay quay số hay ấn phím ... - Số liệu liên quan tới loại đường dây về phương diện tính cước như: + Đường dây miễn cước hay tính cước. + Đường dây có truyền dẫn xung cước hay không. + Đường dây có tính cước cho các cuộc gọi vào hay không ... 5.3.3. Số liệu nghiệp vụ: - Số liệu này liên quan tới công việc cung cấp các nghiệp vụ nâng cao cho thuê bao ngoài nghiệp vụ thông thường chúng bao gồm: - Số liệu bán cố định dùng để xác định các nghiệp vụ mà tổng đài cung cấp cho thuê bao chẳng han như gọi địa chỉ ngắn nghiệp vụ đường dây nóng, gọi chờ ... - Số liệu mà thuê bao có thể thay đổi được bằng thao tác ở máy điện thoại của mình như bảng mã thuê bao gọi địa chỉ ngắn và địa chỉ đầy đủ tương ứng, địa chỉ gọi chuyển, gọi thông báo ... - Số liệu xác định nhóm đường dây PABX, tức là nhóm các đường dây có thể gọi đến bằng một địa chỉ. Nó cho phép tạo lập nhóm từ bất kỳ đường dây nào của tổng đài mà không cần để ý tới địa chỉ thiết bị LEN của chúng. 5.3.4. Hồ sơ thuê bao: Số liệu thuê bao được lưu trong các hồ sơ thuê bao. Các vùng nhớ này được phân phát cố định cho các thuê bao. Các hồ sơ này được sắp xếp ở bộ nhớ chính hay bộ nhớ ngoài tuỳ từng trường hợp vào từng hệ thống. Chúng có thể được định địa chỉ theo địa chỉ danh bạ DN hay địa chỉ máy LEN của thuê bao. Hồ sơ thuê bao có hai loại thông tin chính: Thông tin định gốc cuộc gọi và thông tin định đích cuộc gọi. 5.4. Phân tích phiên dịch và tạo tuyến 5.4.1. Phiên dịch: Mục đích của công việc phiên dịch là cung cấp thông tin phục vụ đấu nối và tính cước cho các cuộc gọi. Phiên dịch ở một tổng đài điện tử được thực hiện nhờ các chương trình phân tích tiền định và các bảng phiên dịch. Trong đó cơ bản cần có hai loại số liệu để tiến hành công việc phiên dịch. - Số liệu định gốc cuộc gọi. - Số liệu chọn số. 5.4.2. Phân tích tạo tuyến. Đây là công việc phân tích các chữ số địa chỉ thu được. Quá trình phân tích được thực hiện từng chữ số một hay sau khi thu được một vài chữ số đầu. Thông tin địa chỉ có thể bao gồm toàn bộ các chữ số địa chỉ hay một phần trong các chữ số đó. Nói chung quá trình phân tích các chữ số địa chỉ để có được các thông tin và tạo tuyến được thực hiện theo hai bước. - Xác định kiểu cuộc gọi. - Xác định thông tin tạo tuyến. 5.4.3. Bảng phiên dịch và tạo tuyến. Các chương trình phiên dịch và tạo tuyến đưa ra bảng phiên dịch và tạo tuyến cho cuộc gọi. Bảng này xác định mối quan hệ giữa các chữ số địa chỉ thu được và nhóm đường trung kế hay các mạch điện kết cuối dùng để đấu nối cho cuộc gọi. 5.5. Thiết lập cuộc gọi nội hạt. Quá trình thiết lập một cuộc gọi nội hạt trong một hệ thống tổng đài điện tử kỹ thuật số SPC bao gồm những bước cơ bản sau: - Dò thử đường dây thuê bao chủ gọi. - Cấp chuông. - Giai đoạn trước lúc chọn số. - Chọn số và tạo tuyến. - Giám sát cuộc gọi. 5.6.Tính cước. Ở tổng đài thuê bao, công việc tính cước được thực hiện bởi các đồng hồ tính cước riêng cho từng thuê bao. Ở các tổng đài SPC các đồng hồ cước thực chất là các vùng nhớ. Giá cước cho mỗi cuộc gọi có thể xác định tại chỗ thông qua các thông tin lấy được từ các bảng phiên dịch. Giá cước này cũng có thể định đoạt dựa vào thông tin đo cước từ tổng đài khác đưa tới. Giá cước của mỗi cuộc gọi được biểu thị bằng số các đơn vị cước cơ sở, giống như các xung tạo bước cho các bộ tính cước ở tổng đài cơ điện, không phải tính ra giá trị tiền hiện hành. Các bảng phiên dịch ở các hồ sơ thuê bao cần cung cấp thông tin cho phép hệ thống quyết định được đối với mỗi cuộc gọi, các tham số sau: - Đây là cuộc gọi không tính cước hay tính cước. - Tính cước dựa trên cơ sở giá cước đồng đều. Việc tính này sẽ chỉ ra số lượng các đơn vị cước cơ sở. - Tính cước trên cơ sở cự ly và thời gian hội thoại. Công việc tiính cước loại này dựa vào tốc độ xung. - Tính cước dựa vào thông tin cước từ tổng đài khác đưa tới. Thông tin này có thể ở dạng thông báo về tốc độ xung hay dãy xung cước truyền dẫn về trực tiếp. Tổng đài nội hạt cũng có thể cung cấp các dịch vụ liên quan tới quá trình tính cước cho một số thuê bao. Điều này liên quan tới thông tin về các dịch vụ của thuê bao lưu ở các hồ sơ thuê bao. 5.6.1.Tính cước tại nhà: Ở các tổng đài điện tử SPC thuê bao có thể được cung cấp dịch vụ tính cước tại nhà. Để có được dịch vụ này, máy thuê bao được trang bị thêm một bộ tính cước kiểu hiển thị. Các xung cước có thể được phát đi từ tổng đài qua đường dây thuê bao để tác động tới bộ tính cước đặt tại nhà thuê bao. Các xung này cần phát đi theo cách thời gian thực, trong lúc thuê bao đang đàm thoại nhờ một thiết bị phát xung cước đặt ở các bộ trung kế nội bộ, trung kế ra hay trang bị chung cho cho tất cả các loại cuộc gọi. Công việc truyền dẫn các xung cước này được điều khiển bởi trang thiết bị ngoại vi độc lập hay bộ điều khiển trung tâm thông qua chương trình ghi sẵn. 5.6.2. Tính cước cho thuê bao bị gọi. Nhờ dịch vụ này cước cho các cuộc gọi được tính cho thuê bao bị gọi mà không tính cho thuê bao chủ gọi như thường lệ. Sau khi phân tích loại dịch vụ của thuê bao bị gọi ở tổng đài đầu cuối khởi xướng một quy trình nhận dạng thuê bao chủ gọi, hệ thống xác định giá cước cho cuộc gọi dựa vào bảng phiên dịch của nó. Cuối cùng nó đưa ra giá cước thích hợp tính cho thuê bao bị gọi. 5.6.3.Lập hoá đơn tính cước. Công việc này cung cấp cho thuê bao thông tin về cước một cách chi tiết ở dạng hoá đơn cho tất cả hay một số cuộc gọi. Có thể có một vài kiểu lập hoá đơn, chẳng hạn như chỉ lập hoá đơn cho các cuộc gọi đi quốc tế, lập hoá đơn cho cả cuộc gọi nội hạt và đường dài trong nước hay lập hoá đơn cho tất cả các cuộc gọi không phải nội hạt ... Nhờ dịch vụ này mà mỗi cuộc gọi cần được soạn thảo và đưa ra một bản tin. Một bản tin cần soạn thảo phải được quyết định sau khi thực hiện công việc phiên dịch vì nó phụ thuộc vào đích cuộc gọi dịch vụ của thuê bao chủ gọi. Nội dung của một bản tin ở dạng hoá đơn chi tiết bao gồm: - Đặc điểm thuê bao chủ gọi. - Địa chỉ thuê bao bị gọi. - Thời gian bắt đầu tính cước. - Khoảng thời gian tính cước cho cuộc gọi và các đơn vị cước. Các tin tức trong hoá đơn cước thường được ghi ở các vùng nhớ đặc biệt. Các vùng nhớ này được phân phát linh hoạt cho các cuộc gọi trong suốt khoảng thời gian hội thoại. Chúng được phân phát cho các cuộc gọi vào giai đoạn trước lúc thuê bao chọn số và giải toả vào lúc kết thúc cuộc gọi hay ngay sau khi công việc phiên dịch được thực hiện và quyết định cuộc gọi không cần thiết lập hóa đơn chi tiết. Để nghiệp vụ này có thể cần trang bị các chương trình bổ trợ chuyên dụng cho hệ thống tính cước. 5.6.4. cách tính cước. Việc tính toán số lượng đơn vị cước cơ bản có thể được thực hiện cho cuộc gọi bằng cách xác định cước theo cự ly và thời gian hội thoại. Nó có thể được tính theo thời gian thực hiện vào lúc kết thúc cuộc gọi. - Tính toán thời gian thực: Phương pháp tính cước được thực hiện khi xung cước được truyền dẫn qua đường dây thuê bao chủ gọi nhờ chương trình định thời theo chu kỳ. tuỳ từng trường hợp loại cuộc gọi mà chu kỳ này được điều chỉnh phù hợp. Qua một nhịp ngắt bộ tính cước phân phát cho cuộc gọi nhảy một bậc. Khoảng thời gian ngắt bằng khoảng tính cước và có thể thay đổi trong lúc hội thoại tuỳ từng trường hợp sự thay đổi giá cước giữa ngày và đêm giữa ngày thường và ngày lễ. Như vậy cần xác định chu kỳ thích hợp mỗi khi thay đổi giá cước thao tác theo nhịp phù hợp vào lúc cuộc gọi và tính cước chỉ thị trực tiếp số lượng đơn vị cước cơ bản để lập hoá đơn cho cuộc gọi. - Tính cước sau khi hoàn thành cuộc gọi: Phương pháp tính này không thực hiện ở chế độ thời gian thực. Vì vậy có thể sử dụng các chương trình tính cước ở mức ưu tiên thấp. Đối với cách tính cước theo thời gian và cự ly cuộc gọi thì thông tin cần cho công việc tính cước thường thu được từ bảng số liệu gần với các mạch trung kế ra. Khi giá cước thay đổi giữa ngày và đêm hay từng ngày trong năm thì thời gian thay đổi giá cước mới nhất được ghi lại. Điều này cho phép tính cước riêng rẽ trong từng khoảng thời gian và từng khoảng thời gian gọi cũng được tính theo giá cước thích hợp. Nội dung của bộ tính cước cho thuê bao là thông tin cần được quản lý có tầm quan trọng bậc nhất và độ trung thực của nó cần được đảm bảo. Điều này được thực hiện nhờ sử dụng các bộ tính cước bổ trợ không thay đổi được lưu ở đĩa. Chẳng hạn, ở các hệ thống tổng đài không có các bộ nhớ khối thì số liệu tính cước có thể được bảo vệ, chống mất mát số liệu nhờ phương pháp sao chép nội dung các bộ tính cước vào băng từ theo định kỳ. Kết luận: Các tổng đài hiện nay đều làm việc theo nguyên lý điều khiển theo chương trình ghi sẵn (SPC). Tất cả các chức năng xử lý cuộc gọi được thực hiện trên cơ sở các chương trình ghi sẵn đã được thiết kế và lưu trữ trong các bộ nhớ xử lý trung tâm và ngoại vi. Thế hệ đầu tiên của loại tổng đài điện tử SPC được thiết kế theo kiểu một bộ xử lý. Sau này người ta sản xuất các tổng đài theo kiểu module và có nhiều cấp xử lý. Với cấu trúc như vậy tổng đài có thể dễ dàng được mở rộng dung lượng và nâng cao độ an toàn của hệ thống và hiệu quả sử dụng các bộ xử lý cũng cao hơn. Các bộ xử lý ngoại vi được trang bị các bộ xử lý thích hợp. Điều khiển theo chương trình ghi sẵn không những đem lại thuận lợi cho người sử dụng mà còn đơn giản hoá rất nhiều trong quá trình khai thác và bảo dưỡng. VI. HỆ THỐNG BÁO HIỆU TRONG TỔNG ĐÀI 6.1. Giới thiệu chung Trong viễn thông nói chung và tổng đài nói riêng báo hiệu là các thông tin được truyền giữa các thuê bao, giữa các tổng đài với tổng đài dùng để phục vụ cho quá trình xử lý cuộc gọi và giải phóng cuộc gọi. Hệ thống báo hiệu được sử dụng như một ngôn ngữ cho hai thiết bị trong hệ thống chuyển mạch trao đổi với nhau để thiết lập tạo tuyến nối cho các cuộc gọi. Thông thường báo hiệu được chia thành hai loại: Báo hiệu đường dây thuê bao và báo hiệu liên đài. Báo hiệu đường dây thuê bao là báo hiệu đầu cuối, thường đó là máy điện thoại và tổng đài nội hạt, còn báo huệu liên đài là báo hiệu giữa các tổng đài với nhau. Hình 18: Sơ đồ báo hiệu trong tổng đài Báo hiệu liên đài gồm hai loại là: Báo hiệu kênh riêng (CAS) và báo hiệu kênh chung (CCS). Báo hiệu kênh riêng là hệ thống báo hiệu trong đó báo hiệu nằm trong kênh tiếng hay trong một kênh có liên quan chặt chẽ với kênh tiếng. Còn với báo hiệu kênh chung là hệ thống báo hiệu trong đó báo hiệu nằm trong một kênh tách biệt với các kênh tiếng và báo hiệu này được sử dụng chung cho một số lượng lớn các kênh tiếng. 6.2. Các loại báo hiệu trong tổng đài 6.2.1. Báo hiệu đường thuê bao Là các thông tin báo hiệu được truyền thông tin giữa tổng đài với thuê bao trên đường dây thuê bao. Là báo hiệu được thực hiện giữa thuê bao với tổng đài hay giữa tổng đài với thuê bao. Để thiết lập cuộc gọi thuê bao “ nhấc tổ hợp “ máy. Trạng thái nhấc tổ hợp được tổng đài phát hiện và nó gửi tín hiệu “ mời quay số” đến thuê bao. Thuê bao nhận được tín hiệu đó thì bắt đầu quay số đến thuê bao bị gọi. Nếu thuê bao bị gọi rỗi, tổng đài sẽ gửi dòng chuông cho thuê bao bị gọi, đồng thời tín hiệu hồi chuông được gửi trở lại thuê bao gọi. Nếu thuê bao bị gọi đang bận thì tín hiệu báo bận được gửi trở lại thuê bao chủ gọi. Khi quay số xong thuê bao nhận được 1 số tín hiệu của tổng đài tương ứng với từng trạng thái như tín hiệu “ hồi âm chuông”, “ báo bận”, hay 1 số tín hiệu khác. Hình 19: Sơ đồ báo hiệu đường dây thuê bao 6.2.2. Báo hiệu liên tổng đài( trung kế) Báo hiệu liên tổng đài có thể được gửi đi theo mỗi đường trung kế liên tổng đài riêng. Các tín hiệu này có tần số nằm trong hay ngoài băng tần tiếng nói . Dạng tín hiệu: Dạng xung: Tín hiệu được truyền đi là dạng xung. Dạng liên tục: Tín hiệu báo hiệu liên tục về thời gian nhưng thay đổi trạng thái đặc trưng về tần số. Dạng áp chế: Tương tự như kiểu truyền đi bằng dãy xung nhưng khoảng truyền dẫn tín hiệu không ổn định trước mà kéo dài cho tới khi có xác nhận của phía thu thông qua 1 tín hiệu xác định nhận truyền ngược lại từ đầu thu tới đầu phát. cách báo hiệu này có độ tin cậy cao vì nó tạo điều kiện cho việc truyền dẫn các tín hiệu phức tạp. Các tín hiệu trong báo hiệu liên tổng đài có thể là : Tín hiệu chiếm, công nhận chiếm, số hiệu thuê bao bị gọi, tình trạng tắc nghẽn, xóa thuân, xóa ngược.... Báo hiệu liên tổng đài bao gồm: Các tín hiệu thanh ghi: Được sử dụng trong thời gian thiết lập cuộc gọi để chuyển giao địa chỉ và thông tin thể loại thuê bao. Các tín hiệu báo hiệu đường dây: Được sử dụng trong toàn bộ thời gian cuộc gọi để giám sát trạng thái đường dây. Báo hiệu liên đài ngày nay sử dụng 2 phương pháp: Báo hiệu kênh liên kết ( CAS) Báo hiệu kênh chung (CCS) Hình 20: Sơ đồ báo hiệu liên tổng đài 6.2.2.1. Báo hiệu kênh liên kết( CAS) Khái quát Báo hiệu kênh liên kết là báo hiệu gần và liên kết với kênh thoại, báo hiệu, truyền thoại trên cùng 1 tuyến qua mạng lưới. Với hệ thống báo hiệu này mỗi kênh tiếng có một đường báo hiệu riêng được ấn định, các tín hiệu báo hiệu được truyền theo nhiều cách khác nhau: trong băng, ngoài băng hay trong khe thời gian 16 trong tổ chức đa khung của hệ thống PCM. Có nhiều hệ thống báo hiệu CAS khác nhau được sử dụng: - Hệ thống báo hiệu xung thập phân. - Hệ thống báo hiệu hai tần số. - Hệ thống báo hiệu xung đa tần. - Hệ thống báo hiệu bị khống chế (Hệ thống báo hiệu CCITT R2). Trong các hệ thống báo hiệu này, thông thường các tín hiệu được truyền dưới dạng xung hay tone, hay tổ hợp các tần số tone. cách báo hiệu đa tần được sử dụng rộng rãi cho chức năng tìm chọn, bằng cách sử dụng 2 trong 5 hay 6 tần số nằm trong băng kênh thoại (300-3400 Hz). Hệ thống báo hiệu CAS được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là hệ thống mã đa tần R2 của CCITT. Các hệ thống báo hiệu kênh kiên kết a. Hệ thống báo hiệu CCITT 1: Sử dụng tần số 500 Hz và ngắt quãng 20 Hz. Ngày nay không còn sử dụng. b. Hệ thống báo hiệu CCITT 2: Sử dụng tần số 600 Hz và ngắt quãng 750Hz. Ngày nay vẫn được sử dụng ở New Zealand, Nam Mỹ, Australia. c. Hệ thống báo hiệu CCITT 3: Là hệ thống báo h




Download miễn phí DOC để xem đầy đủ
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top