kvltdf

New Member
Download Tiểu luận Tính khả thi của những văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành

Download miễn phí Tiểu luận Tính khả thi của những văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành





Nhìn nhận một cách khách quan, những văn bản pháp luật Việt Nam đã có những đổi mới để ngày càng có tính khả thi hơn trong quá trình áp dụng vào cuộc sống, Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không tồn tại những văn bản pháp luật thiếu tính khả thi. Quy định của pháp luật và ý nghĩa có việc bảo đảm tính khả thi của văn bản rất cụ thể, rõ ràng và về mặt lý thuyết không có ai phản đối. Tiếc thay, hiện nay đã và đang xuất hiện khá nhiều văn bản không có tính khả thi hay tính khả thi rất thấp. Câu chuyện cần được quan tâm và nói đến ở đây đó chính là sự tồn tại của những văn bản thiếu tính khả thi đó.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỞ BÀI
Khi xây dựng một văn bản pháp luật, chúng ta thường nói đến tính khả thi của văn bản và thường đặt ra câu hỏi liệu văn bản đó có tính khả thi hay không? Vậy, khả thi là gì? Một văn bản pháp luật cần đáp ứng những yêu cầu nào để có tính khả thi và phải làm như thế nào để xây dựng được một văn bản pháp luật đảm bảo tính khả thi?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Vì sao văn bản pháp luật cần có tính khả thi?
“ Khả thi” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện. Như vậy, một văn bản pháp luật có tính khả thi là một văn bản pháp luật có khả năng thực hiện trên thực tế hay nói một cách khác là những quy định của văn bản pháp luật đó có khả năng đi vào cuộc sống mà không chỉ dừng lại trên giấy. Việc đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng văn bản.
Tại khoản 3, điều 36, Luật Ban hành văn bản pháp luật quy định: “Tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện”. Quy định này là hợp lí và cần thiết để những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian và tiền bạc khi một văn bản pháp luật được dự thảo, hội thảo, nghiên cứu, ban hành nhưng xa rời thực tế hay tạo ra những tác động ngược và các đối tượng thực thi không thể thi hành.
Nếu văn bản phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, chứa đựng những nội dung phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế- xã hội và yêu cầu quản lí nhà nước sẽ tạo ra những “ đòn bẩy” tăng trưởng kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Trường hợp văn bản pháp luật không phù hợp, không phản ánh đúng và đầy đủ các hướng vận động của đời sống xã hội với những quy định quá cao hay lỗi thời sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội, là nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả của quản lí nhà nước. Với những phân tích trên, ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của tính khả thi của văn bản pháp luật. Rõ ràng, một văn bản pháp luật hoàn toàn đúng trên lí thuyết, với nhiều những quy định đầy đủ, có tính thống nhất với nhau cũng sẽ không có ý nghĩa gì nếu nó không mang tính khả thi. Tính khả thi là yếu tố “ cần” của một văn bản pháp luật.
Một văn bản pháp luật phải đáp ứng những yêu cầu nào để có thể có tính khả thi?
Nội dung của văn bản pháp luật phải phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
Đây là điều kiện đầu tiên cần có của một văn bản pháp luật. Cụ thể, văn bản luật đó phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, không thấp hơn và cũng không cao hơn trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Sự phù hợp này phản ánh rất rõ mối tương quan giữa trình độ pháp luật và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Luật phải điều chỉnh và định hướng hành vi của con người phù hợp với quy luật của xã hội, phù hợp với lòng dân, phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của nhân dân thì mới được xã hội chấp nhận, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tự nguyện thực hiện. Văn bản pháp luật được tạo ra không phải với mục đích là một văn bản mang tính chất lí thuyết, thể hiện tính học thuyết cao mà điều quan trọng cũng như cơ sở để nó ra đời, tồn tại chính là hiệu quả tốt trong quản lí xã hội, nâng cao lợi ích, đời sống của nhân dân. Người làm luật cần có những định hướng đúng đắn và phù hợp trong việc đưa ra những quy định để tạo sự hưởng ứng,tự nguyện, tích cực tham gia của người dân, từ đó công tác quản lí của cơ quan nhà nước sẽ tự đi theo chiều hướng tốt: hoạt động quản lí dễ dàng, hạn chế được cơ số những vụ vi phạm pháp luật…Tính phù hợp của nội dung văn bản pháp luật với điều kiện kinh tế - xã hội còn thể hiện ở việc biết nắm bắt những đặc thù của tình hình kinh tế - xã hội đất nước để đưa ra những quy định đúng đắn, có hiệu quả. Ví dụ: Theo qui định tại khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tuổi kết hôn của nam là từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mưởi tám tuổi trở lên. Việc quy định độ tuổi kết hôn đúng đắn, phù hợp như vậy là do người làm luật đã biết căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lí của con người, căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.
2. Văn bản pháp luật phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Các quy định của văn bản pháp luật phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, chi tiết, có khả năng thi hành ngay mà không cần chờ quá nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Khi xem xét nội dung hợp pháp, tính hợp hiến của văn bản pháp luật cần xét tới mối quan hệ giữa các văn bản trong hệ thống văn bản pháp luật. Trong những phạm vi điều chỉnh nhất định, văn bản pháp luật thường không tồn tại biệt lập mà luôn có mối quan hệ với nhau. Nội dung của văn bản pháp luật đang soạn thảo cần được đánh giá sao cho phù hợp và thống nhất với nội dung của những văn bản có liên quan. Những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, không bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật cũng gây ra rất nhiều vướng mắc trong thực tế cũng rất khó đi vào cuộc sống.
Thực tế cho thấy có những văn bản quy định những nguyên tắc mang tính chung chung, hoàn toàn phụ thuộc vào các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành do đó chậm đi vào cuộc sống. Với thực tiễn như vậy không thể tránh khỏi trường hợp trong quá trình văn bản quy định chi tiết đang được soạn thảo thì vấn đề cần được giải quyết trước đó đã đi theo chiều hướng khác, vì vậy, cần thiết phải có những quy định khác thay thế để thực hiện có hiệu quả hơn; đồng nghĩa với việc văn bản pháp luật ấy đã không còn có hiệu quả áp dụng trên thực tế. Rõ ràng, với những trường hợp như vậy, không khó có thể lí giải vì sao nhiều văn bản pháp luật được soạn thảo, ban hành chỉ có ý nghĩa trên giấy tờ, chưa một lần được áp dụng vào thực tế; nếu có áp dụng thì hiệu quả tác động cũng giảm đi đáng kể. Tiếp đó, các quy định của luật phải có bộ máy thực hiện, tổ chức thực hiện hay kiểm tra, giám sát việc thực hiện, xử lý hành vi vi phạm và có đủ ngân sách, kinh phí để thực hiện. Đồng thời, cũng cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong thực hiện các quy định của luật. Chính vì vậy, yêu cầu cần đặt ra đối với văn bản pháp luật là các quy định của văn bản pháp luật phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, chi tiết, có khả năng thi hành ngay mà không cần chờ quá nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Như vậy sẽ dễ dàng triển khai trong thực tiễn, phù hợp với khả năng của các cơ quan có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện vă...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top