love_matrix

New Member
Download Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu

Download miễn phí Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu





Ý thức của các nhà nhập khẩu chưa cao
Có thể nói đây là yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới việc thực thi luật TNK. Quy định của pháp luật hiện hành rất coi trọng sự tự giác của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, có thể nói quy định này chưa thực sự phù hợp. Các nhà nhập khẩu luôn hướng tới lợi nhuận tối đa cho bản thân. Từ đó, luôn tìm cách “lách luật” nhằm trốn thuế, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Mục đích của việc thực thi luật thuế nhập khẩu không đạt đươc.
Dưới đây, xin đề cập tới một số cách thức mà các nhà nhập khẩu sử dụng để trốn thuế - những hành vi trái pháp luật, là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc đưa luật thuế nhập khẩu vào thực tiễn, thực thi hết vai trò mà các nhà làm luật đã kỳ vọng khi xây dựng lên nó.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

, hiệp định…)
2.2, Thực tiến áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam
Luật TXK,TNK đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1991 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1998). Tuy nhiên, luật này đã bộc lộ nhiều bất cập, quy định không hợp lý dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật thuế, gây thất thu lớn cho ngân sách và ảnh hưởng đến sản xuất trong nước.
Để khắc phục, Luật TXK,TNK 2005 đã ra đời. Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đạo luật này đã khắc phục được nhiều bấp cập của Luật TXK,TNK 1991. Trong quá trình thực thi từ 1/1/2006 đến nay, đạo luật này đã thể hiện nhiều ưu điểm, song vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
2.2.1, Thành tựu đạt được
Luật TXK,TNK 2005 ra đời đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các chính sách thuế, góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế, Việt Nam gia nhập WTO, chính sách về TNK ngày càng được mở rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng cao đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
Pháp luật TNK đã phản ảnh chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế, mở rộng ngoại giao của nước ta. Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan, có các ưu đãi thuế quan, xác định giá tính thuế phù hợp với pháp luật quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Từ đó, thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các quốc gia liên quan.
Nguồn thu từ TNK là một nguồn thu ổn định của ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, tính từ 1/1/2011 đến 31/3/2111, thu ngân sách nhà nước của ngành hải quan ước đạt 44.000 tỷ đồng, tăng khoảng 12,6% so với cùng kỳ năm trước.
Luật TXK,TNK 2005 ra đời đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao sự minh bạch trong hoạt động hải quan, theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như vậy, Luật TXK,TNK 2005 nói chung là TNK nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
2.2.2, Những hạn chế còn tồn tại
Mặc dù đã rút kinh nghiệm từ Luật TXK,TNK 1991, song, trong quá trình áp dụng, Luật TXK,TNK 2005 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO 1/2007. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, rườm rà và còn chưa thống nhất với các cam kết quốc tế; cơ sở vật chất kỹ thuật cùng kiệt nàn… đã khiến cho việc thực thi pháp luật trở nên khó khăn, tạo kẽ hở cho các nhà nhập khẩu trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Theo thống kê của ngành hải quan, trong năm 2009, có gần 1000 doanh nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3000 tỷ đồng. Sau khi phân loại, khoảng 2500 tỷ đồng được xếp vào loại nợ khó đòi…
II, NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
1, Những yếu tố tích cực
Thứ nhất, những quy định của luật mới đã tạo ra một cơ sở pháp lý thống nhất về thu TXK,TNK nói chung và TNK nói riêng. Trên tinh thần hội nhập và hoàn thiện quy định của pháp luật, Luật TXK,TNK hiện hành tỏ ra minh bạch và hiệu quả hơn những luật thuế trước đây. Theo đó, luật đã có những quy định phù hợp với Luật Hải quan như quy định về trị giá hải quan, kiểm tra hải quan. Luật đã quy định mở rộng hơn về đối tượng không chịu thuế và miến thuế, phát huy tinh thần tích cực và chủ động của các chủ thể nộp thuế, tạo môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta… Sự thống nhất của hệ thống pháp luật, hợp lý với hoàn cảnh thực tế chính là điều kiện cố yếu để pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng và pháp luật nói chung được thực thi một cách hiệu quả.
Thứ hai, chúng ta đã áp dụng những phương pháp mới trong việc thực hiện hoạt động nhập khẩu. Hiện nay, chúng ta đang triển khai mô hình thực hiện hải quan điện tử theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg, Thông tư 222/2009/TT-BTC. Mô hình này đã đạt được những thành tựu nhất định. Đối với 13 cục hải quan tỉnh, thành phố, số doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử đã đạt 43.168 doanh nghiệp; số tờ khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử đạt 1,58 triệu tờ khai, chiếm tỷ lệ 70%; kim ngạch thực hiện hải quan điện tử đạt 116,7 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 70,3%
. Hải quan điện tử mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp như giảm chi phí thủ tục, thời gian…, giảm việc sách nhiễu, tiêu cực.
Số chi cục thực hiện hải quan điện tử cũng đã đạt 80 chi cục, chiếm tỷ lệ 95%. Ngày 23/3/2011, Văn phòng Chính phủ ban hành công văn số 1757/VPCP-KTTH về việc mở rộng thí điểm thủ tục hải quan điện tử, theo đó đồng ý mở rộng thực hiện hải quan điện tử cho 7 đơn vị mới. Việc này giúp cho hoạt động kiểm tra, giám sát nhập khẩu được dễ dàng, thuận tiện hơn, giúp cho pháp luật thuế nhập khẩu có thể được thực hiện một cách triệt để hơn.
2, Những yếu tố tiêu cực
2.1, Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, quy định không thống nhất, nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau
- Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ. Hiện nay, hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng cao, hàng hóa được nhập khẩu vào nước ta từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau với giá cả cạnh tranh. Luật TXK,TNK đã quy định các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới ban hành ba pháp lệnh: Pháp lệnh thuế tự về năm 2002, Pháp lệnh thuế chống bán phá giá năm 2004 và Pháp lệnh thuế chống trợ cấp năm 2004. Tuy nhiên, đến nay, mới chỉ có một nghị định hướng dẫn cho thuế chống bán phá giá. Riêng thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa chưa có một văn bản nào quy định cụ thể mà mới chỉ tồn tại trong Luật TXK,TNK.
Việc thiếu sót những văn bản quy định cụ thể, văn bản hướng dẫn như vậy gây nên rất nhiều khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật TNK nói riêng và Luật TXK,TNK nói chung. Điều này còn tạo ra bất lợi lớn trong quá trình bảo hộ hợp lý các ngành sản xuất trong nước.
- Thứ hai, một số quy định của pháp luật chưa thực sự phù hợp với các hiệp định của WTO, do đó, tính thực tiễn của các quy định này là không cao. Trong điều kiện nước ta đã gia nhập WTO, ngày càng mở cửa nền kinh tế, nếu những quy định không phù hợp đó vẫn tiếp tục tồn tại thì sẽ là một yếu tố có ảnh hưởng xấu, gây khó khăn cho quá trình thực thi luật thuế nhập khẩu với mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước.
- Thứ ba, quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn chưa thống nhất. Ví dụ như quy định về thuế suất thông thường không thống nhất, thậm chí còn dễ gây khó hiểu. Trong Luật TXK,TNK, thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi (điểm c khoản 2 Điều 10 Luật TXK,TNK). Theo tư duy thông thường, nếu chỉ đọc luật mà không đọc các văn bản h
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top