boom_l93_161094

New Member
Download Tiểu luận Lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Download miễn phí Tiểu luận Lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản





 
Mục lục
A. Mở bài
B. Thân bài .
1. Những vấn đề lý luận về thuyết phân chia quyền lực .
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS
2.1 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS trong chính thể cộng hòa Tổng thống ( điển hình là Hoa Kỳ)
2.2 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS trong chính thể cộng hòa đại nghị (điển hình là Đức)
2.3 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS trong chính thể cộng hòa lưỡng tính( điển hình là Pháp) .
C.Kết luận
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

A. Mở bài
Bộ máy nhà nước tư sản được thành lập dựa trên năm nguyên tắc cơ bản: chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc phân chia quyền lực, nguyên tắc đa nguyên chính trị và đa đảng, nguyên tắc tôn trọng các quyền con người và quyền công dân và nguyên tắc pháp chế tư sản.
Trong đó nguyên tắc phân chia quyền lực được coi là hòn đá tảng trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản. Các qui định của những bản Hiến Pháp đã tạo cơ sở thừa nhận sự tồn tại độc lập, kiềm chế lẫn nhau của ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp, được tổ chức song song với nhau qua đó kiểm tra giám sát hoạt động lẫn nhau.
B. Thân bài
1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước tư sản
Thuyết “tam quyền phân lập” xuất hiện lần đầu tiên bởi nhà bác học vĩ đại của Hi Lạp là Aristot. Theo Aristot nhà nước quản lý xã hội bằng ba phương pháp: lập pháp, hành pháp và phân xử. Bên cạnh aristot bàn về thuyết “tam quyền phân lập” còn có John Locko. Trong tác phẩm “ hai chuyên luận về chính phủ” ông phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và liên hợp.
Từ thế kỷ thứ 18 nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu đã phát triển thuyết “tam quyền phân lập” trở thành một học thuyết độc lập. Trong tác phẩm nổi tiếng “ tinh thần pháp luật”, ông cho rằng quyền lực nhà nước gồm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. “Quyền lập pháp phải thuộc về số đông, quyền hành pháp phải thuộc về một vị vua chúa, còn quyền tư pháp phải được hành xử do những người do dân chúng mà ra”. Tư tưởng phân quyền của Montesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ông là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết “ Tam quyền phân lập”.
Nguyên tắc phân chia quyền lực lần đầu tiên được thể hiện trong những đạo luật mang tính hiến định của cuộc Cách mạng Pháp và sau đó được thể hiện đầy đủ trong Hiến Pháp Hoa Kỳ 1787. Các nước tư bản hiện nay hầu hết đều tiếp thu học thuyết này và đã ghi nhận việc phân chia quyền lực trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng và đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS.
Nội dung của nguyên tắc được thể hiện ở việc quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó:
- Quyền lập pháp: thuộc về Nghị viện (Quốc hội) là cơ quan thay mặt của nhân dân, được lập ra thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu. Quyền lập pháp được hiểu là quyền lập, sửa đổi hay hủy bỏ luật.
- Quyền hành pháp : thuộc về Chính phủ. Quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật, nói cách khác là đưa pháp luật vào thực tiễn.
- Quyền tư pháp: thuộc về Tòa án. Quyền tư pháp là quyền xét xử những tội phạm, giải quyết những tranh chấp, xung đột trong xã hội.
Ba nhánh quyền lực được trao cho các cơ quan khác nhau trong BMNN thực hiện nhưng các cơ quan Nhà nước này ngang bằng độc lập, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau trong quá trình hoạt động theo nguyên tắc: “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Nguyên tắc này phải đảm bảo được quyền lực Nhà nước sẽ không nằm trọn trong tay cơ quan nào đồng thời không cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát, kiểm tra từ phía các cơ quan Nhà nước khác.
- Sự kiềm chế, đối trọng giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp:
Nghị viện có thể can thiệp vào việc tổ chức cơ cấu bộ máy hành pháp thông qua việc lựa chọn các thành viên của Chính phủ, phê chuẩn việc lựa chọn thành viên chính phủ, kiểm tra giám sát hoạt động của Chính phủ thông qua hoạt động của các ủy ban chuyên môn, qua việc chất vấn các thành viên Chính phủ ( Các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm dẻo). Ngược lại Chính phủ cũng có thể kiềm chế, đối trọng với cơ quan lập pháp thông qua hoạt động: trình Nghị viện dự thảo luật và quyết định những vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh, có thể phủ quyết hoàn toàn hay hạn chế đối với các đạo luật mà Nghị viện thông qua.
- Sự kiềm chế đối trọng giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp:
Thể hiện ở việc Tổng thổng ( hay Nhà vua) có thể bổ nhiệm Thẩm phán nhưng sau khi đã được bổ nhiệm thì các thẩm phán không phụ thuộc vào Tổng thống (Nhà vua) nữa mà làm việc một cách độc lập, cũng có nhiều nước Thẩm phán là do dân bầu chứ không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp. Một số nước còn thành lập Tòa án hành chính có quyền xét xử mọi vi phạm của cơ quan hành pháp.
- Sự kiềm chế, đối trọng giữa cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp:
Thể hiện ở việc cơ quan tư pháp hoạt động độc lập nhưng khi cơ quan tư pháp vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân thì cơ quan lập pháp vẫn có quyền dùng cơ chế của mình để xử lý cơ quan tư pháp và bảo vệ quyền lợi của người dân. Ngược lại cơ quan tư pháp cũng có quyền xét xử các thành viên của cơ quan lập pháp có hành vi vi phạm pháp luật.
Lập pháp
Tư pháp
Hành pháp
Theo nguyên tắc phân chia quyền lực thì ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân chia cho những cơ quan khác nhau nhưng không phải vì thế mà quyền lực Nhà nước ở các nước tư bản mất đi sự thống nhất. Quyền lực nhà nước ở các nước tư sản được phân chia theo chiều ngang và chiều dọc. Theo chiều ngang, quyền lực nhà nước chia thành quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được lần lượt trao cho Nghị viện, Chính phủ, Tòa án. Theo chiều dọc, quyền lực Nhà nước được phân chia giữa chính quyền TW và chính quyền địa phương. Việc phân chia quyền lực là sự phân định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan nhà nước khác nhau trong BMNN, tránh được sự chồng chéo, lẫn lộn giữa các cơ quan Nhà nước. Theo đó, sự phân chia quyền lực không làm ảnh hưởng đến việc thống nhất quyền lực mà còn tạo điều kiện cho sự thống nhất quyền lực.
Ưu điểm của việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực là đảm bảo cho quyền lực nhà nước sẽ không tập trung trong tay một cá nhân hay một cơ quan nào. Việc phân chia quyền lực sẽ tránh được sự độc tài, chuyên quyền trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đưa xã hội loài người lên một bước mới trong quản lý Nhà nước. Ngoài ra còn tạo nên sự “chuyên môn hóa” cao độ trong việc thực hiện các chức năng riêng của rừng cơ quan.
Nhược điểm của việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực là: do có phân quyền nên dễ dẫn tới sự tranh chấp, kìm hãm lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm giành quyền lợi nhiều hơn trong thực thi quyền lực Nhà nước.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS.
2.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của BMNNTS trong chính thể cộng hòa Tổng thống (điển hình là Hoa Kỳ)
Quyền lập pháp của nhà nước Hoa Kỳ được trao cho Nghị viện Hoa Kỳ.Theo quy định tại điểm 8, điều 1, Hiến pháp Hoa Kỳ thì Nghị viện Hoa Kỳ có các nhiệm vụ quyền hạn như: quyền lập và thu thuế, vay tiền theo tín dụng của Hợp chúng quốc, quy định nền thương mại…làm ra mọi đạo lu
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top