l1lo0o_boy

New Member
Download Tiểu luận Chứng minh rằng trong cách xác định và quy chế pháp lý của một vùng biển theo quy định của Công ước luật biển 1982 luôn thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia

Download miễn phí Tiểu luận Chứng minh rằng trong cách xác định và quy chế pháp lý của một vùng biển theo quy định của Công ước luật biển 1982 luôn thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia





MỤC LỤCTrang
A LỜI MỞ ĐẦU
B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế
2. Nguồn gốc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế
3. Cách xác định vùng đặc quyền kinh tế
4 Quy chế pháp lí
C KẾT LUẬN
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỤC LỤC
Trang
A LỜI MỞ ĐẦU
B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế
2. Nguồn gốc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế
3. Cách xác định vùng đặc quyền kinh tế
4 Quy chế pháp lí
C KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, biển và đại dương có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con người, là nơi có của cải vô cùng phong phú. Biển và đại dương đã và đang là chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia, trong thời đại ngày nay nó góp phần quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề về kinh tế, khi mà sự bùng nổ về dân số diễn ra trên toàn cầu, tài nguyên thiên nhiên dàn cạn kiệt, môi trường sinh thái bị ô nhiễm. Các nhà kinh tế nổi tiếng đã từng nói: Nền kinh tế tương lai của xã hội loài người là nền kinh tế đại dương. Song song với lợi ích to lớn của biển đem lại, thì hiện nay mâu thuẫn, tranh chấp giữa các quốc gia có biển và quốc gia không có biển, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển cũng đang diễn ra một cách gay gắt hơn bao giờ hết. Đặc biệt vào những năm 60 trên thế giới đã phong trào đấu tranh của các lực lượng tiến bộ, chủ quyền của các quốc gia ven biển đã dược mở rộng ra gấp nhiều lần so với trước, từ 12 hải lí đến 200 hải lí tính từ đường cơ sở. Đây là một cách xác định hoàn toàn mới, là kết quả của sự xuất hiện của vùng đặc quyền kinh tế, với các quy chế pháp lý riêng đã hóa giải được các chanh chấp thể hiện được sự dung hòa về lợi ích của các quốc gia.
Để hiểu hơn về vấn đề này sau đây chúng ta cùng đi Chứng minh rằng trong cách xác định và quy chế pháp lý của một vùng biển theo quy định của Công ước luật biển 1982 luôn thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải có chiều rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
2, Nguồn gốc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế
Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra lần đầu tiên tại khóa họp hằng năm của ủy ban tư vấn pháp lí Á phi tại Cô-lôm-bô vào tháng 11 năm 1971 do đại biểu của Kenya nêu ra. Tháng 8 năm 1971 khái niệm vùng biển quốc gia cũng được đưa ra tại ủy ban sử dụng đáy biển của Liên hợp quốc. Tuy nhiên có hai tuyên bố quan trọng nhất đánh dấu sự ra đời của khái niệm vùng đặc quyền kinh tế là tuyên bố của Adel Abebx được mười nguyên thủ quốc gia châu Phi khẳng định lại ở Mongadixic ngày 11 tháng 6 năm 1974 thống nhất đề xuất khái niệm một vùng kinh tế ngoài lãnh hải có chiều rộng 200 hải lí kể từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế ra đời đã làm ổn thỏa giữa hai bên tư tưởng trái ngược nhau, đó là một bên đòi thực hiện chủ quyền lãnh thổ nghĩa là mở rộng lãnh hải ra 200 hải lí và một bên là chống đối lập trường trên. Đây là một sang tạo có ý nghĩa chiến lược lớn về chính trị, đặc biệt là về kinh tế của các nước đang phát triển, chính nội dung khái niệm của vùng biển hoàn toàn mới mẻ mang tên gọi đầy hấp dẫn vùng đặc quyền kinh tế đã chứng minh tính chất “dung hòa” quyền lợi của các nước trong cuộc đấu tranh pháp điểm hóa luật biển .
3, Việc xác định vùng đặc quyền kinh tế.
Trên tinh thần của tất cả các nước có biển cũng nhưng không có biển đều phải được đưa ra xem xét, cân nhắc để tìm ra cách giải quyết “dung hòa” trong hội nghị luật biển,thì việc xác định quy chế pháp lý của một vùng biển mới-vùng đặc quyền kinh tế và các quy định cụ thể được ghi nhận trong công ước 1982 đã thể hiện được tính chất “dung hòa”đó.
Việt xác định chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lí kể từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải đã đem lại quyền lợi cho các nước có biển cũng như không có biển. Xong việc tự mở rộng hải phận của mình từ trước đên nay đều là hành động của một bên, vậy thì việc phân định vùng đặc quyền kinh tế như định nghĩa được ghi nhận trong công ước luật biển 1982 được xác nhận như thế nào? Theo điều 55 của công ước 1982 thì “vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải đặt dưới chế độ pháp lí riêng” Phân tích khái niệm ta thấy vùng đặc quyền kinh tế nằm giữa hai giới hạn bên trong và bên ngoài.
Giới hạn bên trong: Theo như định nghĩa vùng đặc quyến kinh tế là một vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải , thì giới hạn bên trong của vùng đặc quyền kinh tê chính là đường gianh giới phía ngoài của lãnh hải vùng đặc quyền kinh tế tính từ gianh giới phía ngoài của lãnh hải trở ra.
Giới hạn bên ngoài: Theo như quy định của công ước thì có nghĩa vùng đặc quyền kinh tế có giới hạn bên ngoài là một đường song song với đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và cách đường cơ sở đó 200 hải lí.
4, Quy chế pháp lí
Lợi ích thực tế của quốc gia ven biển khi thiết lập một vùng biển mới-vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lí mà công ước 1982 đem lại, dường như đây là chỗ xây dựng một nền móng vững chắc cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia có biển nói chung, đặc biệt cho các quốc gia đang phát triển nói riêng. Nói như vậy không có nghĩa là sự ra đời của vùng đặc quyền kinh tế chỉ mang lại quyền lợi cho các nước có biển, còn các nước không có biển hay các nước có vị trí bất lợi về biển thì quyền lợi của họ trên biển đều được đặt ra trong công ước luật biển , tuyên bố đó đã thể hiện sự công bằng của tất cả các quốc gia.
1.Quyển của các nước ven biển và các nước khác trong vùng đặc quyền kinh tế.
1.a Nước ven biển có quyền chủ quyền hoàn toàn về thăm dò khai thác bảo vệ,sử dụng và quản lý tất cả tài nguyên sinh vật và phi sinh vật ở vùng nước ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Trước khi có công ước 1982 ra đời các nước ven biển chí có quyền đối với tài nguyên ở đáy và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa ,khi công ước 1982 ra đời đã công nhận chủ quyền về kinh tế đó là quyền thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên,sinh vật và phi sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển,đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cũng như các hoạt động khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, điều này có nghĩa các quốc gia ven biển không thăm dò khai thác tài nguyên này, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động thăm dò khai thác đó nếu không được sự thỏa thuận, cho phép của quốc gia ven biển. Tuy nhiên điều 61 của công ước quy định nhiệm vụ của quốc gia ven biển phải hợp tác với các tổ chức quốc tế để có những biện pháp thích hợp bảo vệ, sử dụng và quản lý tài nguyên trong vùng đặc quyển kinh tế, điều này đã phần nào thể hiện được sự dung hòa về lợi ích của quốc gia ven biển và các tổ chức quốc tế. Nhưng trên thực tế thì chủ yếu các quốc gia ven biển là người quản lý bảo vệ tài nguyên này,cũng chính vì vậy mà họ có độc quyền dựa vào khả năng đá...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top