vinhnv43

New Member
Download Tiểu luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

Download miễn phí Tiểu luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng





Tạm giữ không phải là hình phạt mà là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không phải nhằm trừng phạt người phạm tội mà để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ là người chưa bị coi là có tội. Do đó chế độ tạm giữ phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
- Điều 89 BLTTHS năm 2003 quy định: “chế độ tạm giữ,tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của chính phủ”
Chính phủ quy định rõ chế độ tạm giữ bao gồm: nơi tạm giữ, chế độ sinh hoạt, và các chế độ khác tại điều 26, 28, 29, 30, 31 Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành quy chế về tạm giữ,tạm giam. Các cơ quan chức năng quản lí các nhà quản lí có quyền và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật chế độ đối với người bị tạm giữ tạm giam. Cụ thể là chế độ ăn, ở, sinh hoạt, phòng bệnh, chữa bệnh, nhận quà tiếp tế của gia đình và các chế độ khác.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

can,tạm giam áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoắc trả tự do cho họ.
Mục đích tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi pham tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người tạm giữ. Áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt.
2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ.
Theo khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: “tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,người phạm tội tự thú, đầu thú hay người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy theo quy định của pháp luật thì đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ bao gồm:
- Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp thì quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra xác định cần ngăn chặn việc người đó trốn thoát hay cản trở điều tra.
- Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về việc phạm tội của mình. Đây là người đã thực hiện tội phạm nhưng chưa bị cơ quan có thẩm quyền xác định đó là ai mặc dù vụ án đã bị phát hiện,như các trường hợp cơ quan bảo vệ pháp luật biết vụ án xảy ra (đã hay chưa khởi tố vụ án) nhưng chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội hay vụ án chưa phát hiện được do xảy ra trong rừng sâu.
- Người phạm tội đầu thú: là người đã thực hiện tội phạm và đã bị phát hiện; người đã bi tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt trốn khỏi nơi giam giữ, người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nhưng đã trốn thoát nơi cư trú nay ra đầu thú. Đặc điểm chung của người đầu thú là cơ quan bảo vệ pháp luật đã biết nhân than của họ và họ phạm tội gì? Trốn từ lúc nào? Thực chất của việc đầu thú là đầu hàng cơ quan pháp luật, biết được rằng mình không thế thoát được nên đã trình diện và khai báo với cơ quan nhà nước về việc phạm tội của mình để mong được hưởng sự khoan hồng, làm nhẹ tội.
- Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai,cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt.Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quann đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
*** Chính việc quy định 1 cách cụ thể các trường hợp áp dụng như trên đã tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn. Tuy nhiên không phải bất cử người nào bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quá tang, tự thú, đầu thú hay bắt người theo quyết định truy nã đều bị ra lệnh tạm giữ. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản không có căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn, thông cung cản trở việc điều tra hay tiếp tục việc phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng thì có thể không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng lấy lời khai, xác minh những tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người đó.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng đã thể hiện sự quan tâm đến việc tạm giữ người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong truờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hay đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hay phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. (Điều 303 BLTTHS).
- Khi người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hay có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì ra cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hay tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ.
- Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm giữ người, hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan.
3.Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ.
Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS quy định: “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Như vậy, những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp bao gồm:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
*** Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hay đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
Cũng theo quy định này, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người thay mặt của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hay trong lực lượng vũ trang.
4.Thủ tục tạm giữ.
Thủ tục tạm giữ bao gồm: quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hay sau khi tạm giữ người.
Thủ tục tạm giữ được quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003. Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải nêu lí do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày tháng hết tạm giữ và giao cho người tạm giữ một bản. Trong thời hạn 12 giờ kể tư khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm gi
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top